Bà mẹ của hàng nghìn đứa con

Chủ nhật, 24/06/2018

Vương Thị Ngọc Lan (sinh năm 1971) là một Bác sĩ y khoa, Tiến sĩ y học
Vương Thị Ngọc Lan (sinh năm 1971) là một Bác sĩ y khoa, Tiến sĩ y học và là một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm. Bà là người đã giúp cho ra đời hơn 10.000 đứa trẻ bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Năm 1998 bà đã được vinh danh tại giải thưởng Kovalevskaya vì công trình thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên tại Việt Nam.

Nghiên cứu “khá chấn động” của người Việt
Tạp chí Y khoa New England Journal of Medicine (NEJM) là một trong những tạp chí y khoa có uy tín và có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay trên thế giới. Trước đây cũng từng có những người Việt có bài nghiên cứu được đăng tạp chí này nhưng đây là lần đầu tiên chủ trì dự án nghiên cứu là người Việt Nam.


Nhóm nghiên cứu do TS-BS Vương Thị Ngọc Lan (thứ 4 từ phải sang) làm trưởng nhóm (ảnh NVCC)

Nhóm nghiên cứu về so sánh việc chuyển phôi tươi và phôi trữ trong kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) gồm 9 người trong đó tiến sĩ-bác sĩ (TS-BS) Vương Thị Ngọc Lan, bộ môn phụ sản Trường ĐH Y Dược TP.HCM là người chủ trì.

Chia sẻ về kết quả nghiên cứu này, TS-BS Vương Thị Ngọc Lan cho biết: “Trên thế giới có hai phương án chuyển phôi thụ tinh ống nghiệm (TTON). Đó là chuyển phôi tươi vào tử cung hoặc đông lạnh phôi trước, sau đó mới chuyển phôi sau rã đông vào tử cung. Nghe qua thì nhiều người tưởng chừng khó nhưng đó là việc rất bình thường vì kỹ thuật chuyển phôi tươi hay kỹ thuật trữ phôi đông lạnh đã được thực hiện từ lâu. Nhưng vấn đề là phương pháp nào hiệu quả hơn, chi phí ít, biến chứng thấp, thời gian có thai nhanh hơn thì chưa ai có câu trả lời thỏa đáng hết. Do đó, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đi tìm câu trả lời khi nghiên cứu so sánh hai phương pháp điều trị cho vấn đề này”.

'Kinh thánh' y khoa thế giới công bố nghiên cứu của bác sĩ Việt

Công trình về chuyển phôi khi thụ tinh ống nghiệm do tiến sĩ, bác sĩ Vương Thị Ngọc Lan và các cộng sự tại Bệnh viện Mỹ Đức thực hiện. Đây là lần đầu nghiên cứu do một nhóm bác sĩ Việt Nam thực hiện được công bố trên tạp chí y khoa ​uy tín và ảnh hưởng lớn nhất thế giới The New England Journal of Medicine (NEJM) - được ví như "Kinh thánh" của ngành y toàn cầu. 

Tiến sĩ Ngọc Lan cho biết, mỗi năm trên thế giới ước tính khoảng 1,5-2 triệu cặp vợ chồng làm thụ tinh ống nghiệm. Mỗi trường hợp đều được đặt ra câu hỏi nên chuyển phôi tươi hay trữ đông lạnh rồi sau đó mới rã đông để chuyển. Nhiều chuyên gia trên thế giới vẫn loay hoay đi tìm lời giải nên chọn phương pháp nào sẽ hiệu quả.

Các trung tâm thụ tinh ống nghiệm trước đây có xu hướng chuyển phôi tươi, sau đó một số báo cáo cho thấy kết quả tỷ lệ có thai giảm. Một số nơi chuyển sang đông lạnh phôi toàn bộ với hy vọng cải thiện kết quả có thai. Tuy nhiên việc đông lạnh phôi toàn bộ lại làm tăng chi phí và làm trì hoãn cơ hội có thai của người bệnh thêm vài tháng.

Xuất phát từ thực tế này, nhóm nghiên cứu của bác sĩ Ngọc Lan trao đổi về ý tưởng thực hiện nghiên cứu với giáo sư Ben Mol và giáo sư Robert Norman, Đại học Adelaide, Australia, vốn là hai chuyên gia đã hợp tác, hỗ trợ rất nhiều với đồng nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực thụ tinh ống nghiệm. Hai giáo sư rất ủng hộ, bởi các bác sĩ Australia muốn thực hiện nghiên cứu này nhưng chưa thể triển khai do không có trung tâm thụ tinh ống nghiệm lớn, tập hợp đông bệnh nhân và nhóm bác sĩ đủ tâm huyết như Việt Nam.

Đầu năm 2015 các bác sĩ bắt đầu quá trình nghiên cứu trên 792 bệnh nhân. Kết quả cho thấy việc chuyển phôi tươi mang lại hiệu quả tương đương như đông lạnh phôi, chuyển phôi sau rã đông.

Bác sĩ Hồ Mạnh Tường, đồng tác giả nghiên cứu cho biết kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng. Cả hai phương pháp đều không làm thay đổi cơ hội có thai, nghĩa là không nên bắt buộc mọi người phải theo cách nào mà tùy từng trường hợp, hoàn cảnh để chọn lựa phù hợp. Hai phương pháp giúp tăng sự linh động, giảm chi phí, cá thể hóa điều trị cho các cặp vợ chồng mong con.

“Nhiều người lo lắng trữ đông khiến phôi yếu đi nên chuyển nhiều phôi tươi trong lần đầu, dẫn đến khả năng đa thai cao”, bác sĩ Tường phân tích.

Với kết quả nghiên cứu này, sau chu kỳ chuyển phôi tươi đầu tiên, bệnh nhân có thể đông lạnh tất cả phôi còn lại và chuyển sau đó một cách an toàn, hiệu quả. Người bệnh tăng cơ hội có thai mà giảm tối đa nguy cơ đa thai.

Sau hai năm nghiên cứu, tháng 3/2017, nhóm bác sĩ gửi báo cáo dài 200 trang tiếng Anh đến tạp chí The New England Journal of Medicine. Trải qua ba vòng thẩm định sơ bộ, ban biên tập tạp chí đã gửi phản biện dài 14 trang, yêu cầu nhóm nghiên cứu bổ sung, giải thích nhiều vấn đề. Sau hơn 10 lần email trao đổi, chỉnh sửa kéo dài trong 10 tháng, nghiên cứu mới được tạp chí này đồng ý công bố.

Bà Lan chia sẻ, tháng 3/2017, nhóm nghiên cứu nộp bài lên NEJM thì 2 tháng sau tạp chí gửi bản nhận xét phản biện, nhiều đến mức nhóm phải giải đáp… 20 trang A4. Nhóm mất 2 tháng mới có thể trả lời. Sau khi được chấp nhận, nhóm lại phải làm việc với biên tập tới 3 lần, qua 2 bản thảo sau đó mới được đăng. Tất cả từ ngữ chuyên ngành được NEJM biên tập lại để làm sao cho người trong ngành y nhưng không phải chuyên ngành phụ sản và người ngoài ngành có thể hiểu được.

“Mình đi qua hết con đường chông gai, khó khăn, khi đến đích cảm giác lâng lâng, mà nghĩ lại cả nhóm cũng không biết sao mình may mắn đến vậy”, TS-BS Lan nói.
Quốc Bảo tổng hợp (Nguồn: dantri, VNE)

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×