Giáo sư trẻ nhất Việt Nam năm 2019

Thứ năm, 14/11/2019

Hội đồng giáo sư Nhà nước vừa công nhận 75 người đạt chuẩn chức danh giáo sư, 349 người đạt tiêu chuẩn phó giáo sư năm 2019. Trong 75 ứng viên được hội đồng giáo sư nhà nước công nhận đạt chuẩn giáo sư năm 2019, có 2 tân giáo sư trẻ nhất cùng sinh năm 1981.
Hội đồng giáo sư Nhà nước vừa công nhận 75 người đạt chuẩn chức danh giáo sư, 349 người đạt tiêu chuẩn phó giáo sư năm 2019. Trong 75 ứng viên được hội đồng giáo sư nhà nước công nhận đạt chuẩn giáo sư năm 2019, có 2 tân giáo sư trẻ nhất cùng sinh năm 1981.


1. Giáo sư Nguyễn Khánh Diệu Hồng- Trường ĐH Bách khoa Hà Nội


Bà Nguyễn Khánh Diệu Hồng từng là phó giáo sư trẻ nhất năm 2012. Lúc đó chia sẻ với VietNamNet bà Nguyễn Khánh Diệu Hồng từng nói, nhiều người nghĩ nghiên cứu khoa học là điều gì đó cao siêu, nhưng với bà tất cả đều bắt nguồn từ niềm say mê tìm hiểu và chinh phục những điều mới mẻ. Bà tìm đến khoa học cũng là để tự hoàn thiện mình.
 
 
Gương mặt xinh đẹp, nụ cười tươi lan tỏa cảm giác dễ chịu là những ấn tượng mà GS Nguyễn Khánh Diệu Hồng (Trường ĐH Bách khoa Hà Nội) để lại cho người đối diện. Ngay từ thời sinh viên, cô đã nổi tiếng với nhiều công trình khoa học chất lượng, liên tiếp giành các giải thưởng nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước uy tín, được đưa vào thực tế.

Điều gì đã khiến cô gái trẻ sớm có đam mê nghiên cứu khoa học gặt hái được nhiều thành công đến thế? Diệu Hồng cho rằng, đó là một đam mê, khi được làm điều mình thích, cộng với khả năng, nỗ lực của bản thân thì thành công sẽ đến. Nhiều người nghĩ nghiên cứu khoa học là điều gì đó cao siêu. Nhưng với tôi, tất cả đều bắt nguồn từ niềm say mê tìm hiểu những cái mới, lý giải những điều mình quan tâm, những điều mình chưa biết… Hơn nữa, nghiên cứu khoa học có rất nhiều lợi ích, ngoài những thành công do kết quả nghiên cứu mang lại, thì đó còn là một quá trình trưởng thành lên rất nhiều về tri thức và con người. Nó giúp bạn rèn được đức kiên trì, nhẫn nại, tính cẩn thận và khả năng sắp xếp công việc, sắp xếp cuộc sống, hoàn thiện bản thân…

Là một giảng viên, Diệu Hồng luôn khuyến khích sinh viên của mình tìm hiểu, nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, không phải ai cũng làm được, bởi như cô nhận xét: “điều này còn phụ thuộc vào tính cách, sở thích của mỗi người. Không phải cứ làm nghiên cứu mới là tốt, là giỏi. Thực tế, các bạn trẻ có rất nhiều lựa chọn, nhiều lĩnh vực để thử sức và phát triển bản thân, miễn là được làm điều mình thích, làm toàn tâm toàn ý thì đều có cơ hội thành công”.

Tốt nghiệp thủ khoa ĐH Bách khoa Hà Nội, Diệu Hồng nhận được học bổng du học Anh quốc và là người Việt Nam đầu tiên học tập, làm việc tại Viện nghiên cứu hoàng gia Anh (The Royal Institution of GreatBritain). Bao năm tháng sống, học tập ở trời Tây đối với cô, mãi mãi là những kinh nghiệm sống quý giá.

Cô tâm sự, đó là thời kỳ học tập và làm việc không ngừng nghỉ, không ngừng nỗ lực cả trong học tập và trong cuộc sống. Ngoài giờ học, cũng như nhiều du học sinh khác, Hồng còn làm gia sư, làm hướng dẫn viên trong bảo tàng, đi phiên dịch khắp nơi để rèn kỹ năng ngoại ngữ...

Những câu chuyện thú vị, không đầu không cuối, những kỷ niệm vừa vui vừa buồn phác họa hình ảnh của cô gái châu Á nhỏ bé, chăm chỉ và kiên trì. Song cô gái ấy không hề là một “mọt sách”. Cô tiết lộ: “Tôi cũng có rất nhiều đam mê như phim ảnh, thể thao, hội họa... giúp mình cân bằng cuộc sống. Đời sống rất thú vị, đâu chỉ có học và làm. Mà thực tế, biết cách cân bằng như vậy mới có thể thêm sức lực và cảm hứng để làm việc. Khi hài lòng với cuộc sống thì chúng ta sẽ dễ dàng đối mặt với những khó khăn hơn. Trải qua rất nhiều khó khăn rồi, thì mình sẽ thấy nhẹ nhàng hơn. Trước bất cứ vấn đề gì, tôi cũng đều tự nhủ trước tiên: “Mình sẽ vượt qua được!”.


2. Giáo sư Sĩ Đức Quang- Giảng viên Trường ĐH Sư phạm Hà Nội


Đây là cột mốc quan trọng và cũng là niềm tự hào, nhưng anh quan niệm: “Chức danh này trên con đường làm khoa học chắc chắn chúng ta sẽ đi đến trong một lúc nào đó. Song điều nhà khoa học đáng làm là không thể vì một chức danh mà thay đổi cả con đường đi ấy”.

Sinh ra trong gia đình có 5 anh chị em, Quang là con út và cũng là người duy nhất được đi học “đến nơi đến chốn”. Ở tuổi 11, cậu có tư duy thích học. Được người bạn thân cùng lớp cho mượn chồng tạp chí Toán học và Tuổi trẻ, Quang thích thú nghiền ngẫm từng trang.

Vốn ở trong đội tuyển môn Ngữ văn, nhưng những con số thú vị và cả những câu chuyện trong các cuốn tạp chí lại khiến cậu cảm thấy mê mẩn.

“Đó là lý do tôi quyết tâm thi vào lớp chuyên Toán, Trường THPT Chuyên Hoàng Văn Thụ (Hòa Bình)” – giảng viên tuổi 38 chia sẻ.

Tình yêu toán học của giáo sư trẻ nhất năm 2019


Sĩ Đức Quang là giáo sư trẻ nhất trong 75 người được công nhận chức danh này của năm 2019. Ảnh: Thuý Nga

Nhờ vào thành tích đoạt giải Nhì trong kỳ thi HSG quốc gia môn Toán, Quang được tuyển thẳng vào lớp Cử nhân Sư phạm chất lượng cao của Khoa Toán – Tin, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Mong ước duy nhất lúc bấy giờ của chàng sinh viên là được tiếp tục học Toán và nghiên cứu về Toán.

Trong những lần đọc cuốn tạp chí về toán học, Quang luôn thần tượng các bài viết của các bậc “đàn anh” như Lê Quang Nẫm – người từng giành Huy chương vàng Châu Á Thái Bình Dương, hay Vũ Việt Anh – người từng giành Huy chương vàng Toán quốc tế (IMO) năm 1998.

Tình cờ, vào cuối năm nhất đại học, trong một đợt seminar ở khoa, Quang lại được chính “người thầy” Vũ Việt Anh này giảng dạy về Đa tạp khả vi, một đối tượng đẹp đẽ nhất trong Hình học vi phân.

“Có lẽ đó là những điều đẹp đẽ nhất về Toán học mà tôi từng được học đến thời điểm ấy. Chính vì vậy tôi đã quyết định chọn Hình học là bộ môn nghiên cứu về sau này”.

Học tại lớp Cử nhân Sư phạm chất lượng cao, các giáo sư của khoa có ý tưởng rõ ràng về việc phát triển đội ngũ nghiên cứu. Những sinh viên có tài năng như Quang đều được tập hợp để đào tạo định hướng nghiên cứu từ khá sớm.

“Chúng tôi đi học bấy giờ không phải vì điểm chác mà là để tích lũy kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu. Chúng tôi sớm có một nền móng và xác định cho mình con đường đi trong tương lai sẽ là nghiên cứu khoa học”.

Vì vậy, năm 2003, sau khi tốt nghiệp đại học, Sĩ Đức Quang được giữ lại khoa và tiếp tục học lên cao học. Học xong thạc sĩ, anh lên đường sang Nhật làm nghiên cứu sinh. Sau khi bảo vệ luận án Tiến sỹ Toán học ở Đại học Tokyo, anh trở về nước một thời gian rồi đi làm hậu Tiến sỹ tại viện Toán học Oberwolfach, Cộng hòa Đức. Năm 2013, anh sang Pháp và bảo vệ Tiến sĩ Habilitation à diriger des recherches tại Đại học Université de Bretagne Occidentale, Cộng hòa Pháp.

Đức Quang quyết định trở về Việt Nam với mong muốn được nghiên cứu sâu hơn về Toán lý thuyết và đóng góp cho sự phát triển của trường đại học - nơi mình đã ra đi.

“Đối với ngành Toán, đặc biệt là Toán lý thuyết không quá khắt khe về điều kiện nghiên cứu. Tất nhiên ở nước ngoài sẽ thuận lợi hơn cho việc hợp tác quốc tế, gặp gỡ các chuyên gia và trao đổi ý tưởng. Nhưng khi quay về nước, tôi nghĩ bản thân cũng có thể xây dựng được điều gì đó của riêng mình, đóng góp thiết thực cho trường đại học của mình và cho cộng đồng. Vậy nên tôi không có băn khoăn gì khi trở về”, tân giáo sư cho biết.

Cũng như nhiều nhà khoa học trẻ khác, giai đoạn đầu về nước, GS Quang cũng từng bị “hẫng” giữa những khoảng cách nghiên cứu. Trở về là một nhà khoa học thuần tuý, anh cũng phải chật vật để đảm bảo điều kiện sống bằng nguồn thu nhập từ trường đại học.

“Khi ấy tôi khá sốc và tự hỏi: ‘Nếu mình cứ tiếp tục làm nghiên cứu như thế này liệu có tồn tại được không?’”.

May mắn đến khoảng năm 2012, chương trình trọng điểm quốc gia phát triển Toán học giai đoạn 2010-2020 bắt đầu đi vào vận hành và các nhà nghiên cứu bắt đầu được hỗ trợ từ đó. Chương trình đầu tiên là thành lập Viện nghiên cứu cao cấp về Toán. GS Quang là một trong những người đầu tiên hưởng lợi từ chương trình ấy với những khoản phụ cấp đủ để đảm bảo cho cuộc sống nghiên cứu viên. Song song với đó còn có các quỹ, chương trình hỗ trợ khác nhau. Những thứ ấy đã đảm bảo giúp các nhà nghiên cứu sống được bằng làm khoa học.

“Vượt qua quãng thời gian đó, tôi rút ra được một điều là: ‘Cứ làm tốt công việc của mình thì dù ở bất kỳ lĩnh vực nào mình vẫn có thể tồn tại được’”.

Say mê với Toán lý thuyết, GS Quang luôn tâm đắc lời dạy của các thầy trong khoa: “Trong Toán học chứa đựng cả những tư tưởng Triết học”, “Tính Triết học trong Toán học luôn cao”.

Vì vậy, anh luôn say mê đi kiếm tìm những vẻ đẹp trong môn Toán. “Giống như trong hội họa có một đại danh họa là Leonardo da Vinci. Mặc dù có những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao nhưng Leonardo da Vinci luôn tự coi mình là một nhà khoa học hơn là một họa sĩ. Hội họa của ông có rất nhiều yếu tố toán học trong đó, ví dụ như các nguyên tắc toán học của phối cảnh tuyến tính - các đường song song, đường chân trời và điểm vô cùng. Như vậy, toán học không hề khô khan, ngược lại có tính mỹ thuật rất đẹp”.

Theo GS Quang, toán học không phải là môn trực tiếp mang đến lợi ích hay và có tính ứng dụng tức thời, nhưng nó liên quan đến tất cả các ngành khoa học ứng dụng khác để sinh ra sản phẩm. Vì vậy, anh luôn có mong muốn làm điều gì đó giúp học sinh phổ thông hiểu được tầm quan trọng của toán trong sự phát triển của khoa học công nghệ nói chung.

Tình yêu toán học của giáo sư trẻ nhất năm 2019


GS Quang luôn say mê đi kiếm tìm những vẻ đẹp trong môn Toán

Dành trọn thời gian cho nghiên cứu, nhưng GS Quang khẳng định, “cuộc sống của dân Toán không hề khô khan như mọi người vẫn tưởng”.

“Khi nghiên cứu ở bậc cao hơn, không phải lúc nào tôi cũng ngồi trong phòng làm việc. Muốn nghiên cứu khoa học cần phải có sự sáng tạo. Muốn sáng tạo thì cần một chút tự do và một chút lãng mạn. Cho nên, những lúc áp lực tôi thường đọc tiểu thuyết của Jack London hay những truyện dã sử”.

Trở thành giáo sư trẻ nhất Việt Nam năm 2019, GS Sĩ Đức Quang dự định vẫn sẽ tiếp tục đi theo con đường mình đã vạch để đóng góp cho cộng đồng khoa học.
 
Nhật Anh tổng hợp (theo Vietnamnet)
 

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×