Hướng dẫn sản xuất chè an toàn theo VietGAP

Thứ năm, 11/05/2017

Hiện Việt Nam là nước sản xuất chè lớn thứ 7 và xuất khẩu chè lớn thứ 5 trên thế giới. Sản xuất chè an toàn theo VietGAP nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn và là một trong những tiền đề quan trọng để đưa thương hiệu chè Việt Nam vươn xa ra thế giới.
Hiện Việt Nam là nước sản xuất chè lớn thứ 7 và xuất khẩu chè lớn thứ 5 trên thế giới. Sản xuất chè an toàn theo VietGAP nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn và là một trong những tiền đề quan trọng để đưa thương hiệu chè Việt Nam vươn xa ra thế giới.

1. Đánh giá và lựa chọn vùng sản xuất

Tuỳ theo điều kiện cụ thể lựa chọn quy mô hợp lý cho vùng sản xuất, khu sản xuất tập trung nên đảm bảo các điều kiện sau:

- Đồi chè có độ dốc bình quân hợp lý, nếu độ dốc qúa cao khó khăn cho việc trồng trọt, thu hái và thực hiện biện pháp quản lý tổng hợp, dồi dào nước ngầm, mùa mưa thoát nước nhanh, không bị úng. Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm: 18-25 0C, ở khoảng nhiệt độ này cây chè sinh trưởng khoẻ, tính chống chịu tốt, thuận lợi quản lý cây trồng tổng hợp. Độ ẩm không khí trung bình năm trên 80%. Lượng mưa trung bình hàng năm trên 1.200 mm.

- Nguồn nước, đất và không khí không bị nhiễm độc chất hoá học và VSV. Cần xem xét kỹ nguồn nước sử dụng có nguy cơ bị ô nhiễm hay không, nếu có cần đưa ra biện pháp ngăn ngừa có hiệu quả, đặc biệt là sự ô nhiễm tiềm ẩn từ những dòng chảy, ống cống và khí thoát từ ống khói nhà máy. Xây dựng được các hồ đập giữ nguồn nước mặt, tạo nguồn nước tưới và giữ ẩm trong mùa khô

- Trong trường hợp vùng sản xuất bị ô nhiễm bất khả kháng, thì không tiến hành sản xuất chè.


Một đồi chè ở phía Bắc (nguồn Internet)

2. Giống chè

- Tìm hiểu để sử dụng các giống chè mới có năng suất, chất lượng cao và khả năng chống chịu tốt, nhân giống bằng phương pháp giâm cành. Các giống được trồng là giống đã được cấp quản lý có thẩm quyền cho phép phát triển. Mỗi vùng sản xuất nên cơ cấu giống địa phương với các giống mới một cách hài hoà tuỳ theo từng vùng. Hiện nay, các giống mới LDP1, LDP2, PH1, Shan Chất Tiền, Shan Tham Vè, Phúc Vân Tiên, Kim Tuyên, PT95 phù hợp cho vùng thấp, các giống Shan Chất Tiền, Shan Tham Vè, Kim Tuyên, Thuý Ngọc cho vùng cao. Giống TRI 777 cho vùng chè Thái Nguyên để chế biến chè xanh chất lượng cao. Người trồng chè cần tìm hiểu kỹ lý lịch và đặc điểm của từng giống để lựa chọn cho phù hợp với điều kiện sản xuất và thị trường tiêu thụ.

- Mật độ trồng: Các giống chè thân gỗ (chè Shan, PH1…) trồng với mật độ 1,5 – 1,8 vạn cây/ha, trồng hàng đơn. Các giống chè thân bụi hoặc nửa bụi (Kim Tuyên, LDP1…) trồng mật độ từ 1,8 – 2,8 vạn cây/ha, có thể trồng hàng kép. Xu hướng trồng là thu hẹp hàng, giãn cây.

3. Quản lý đất

Đất trồng chè phải được quản lý và sử dụng theo hướng ngăn ngừa mọi khả năng ô nhiễm và độ phì nhiêu của đất ngày càng tăng. Theo đó, cần chú trọng canh tác như sau:

- Hàm lượng chất hữu cơ trong đất là yếu tố quan trọng duy trì độ phì nhiêu và kết cấu của đất. Đảm bảo đủ lượng hữu cơ trong đất sẽ ngăn chặn xói mòn, làm cho đất luôn tơi xốp, chất dinh dưỡng càng ngày càng tăng, trên cơ sở đó cây chè sử dụng nước có hiệu quả, vì thế hạn đối với chè hầu như không xảy ra. Đất chè nên được duy trì hàm lượng mùn tổng số 2,0% trở lên;

- Chất hữu cơ trong đất chè được duy trì trước tiên từ cành lá chè đốn giữ lại hàng năm, tiếp sau là được làm giàu hơn bằng nguồn bổ sung qua việc tủ gốc cho chè từ thân lá thực vật không bị nhiễm bẩn, lá rụng, cành tỉa của các loại cây che bóng, cây trồng xen thời kỳ chè KTCB, tốt nhất là các loại cây có hàm lượng dinh dưỡng cao.

Nguồn vật chất hữu cơ cho đất chè:

- Giữ lại cành lá chè đốn (nương chè năng suất 10 tấn/ha có thể cho lượng cành lá đốn 10 tấn/ha), không nên dùng cành lá chè đốn làm củi đun nấu;

- Trồng cây che bóng để bổ sung nguồn lá rụng và cắt tỉa hàng năm của cây che bóng (chàm lá nhọn, muồng Cassia - muồng đen,…);

- Tủ gốc bằng tế guột, rơm rạ, trồng cỏ Ghi nê,… lượng tủ 20 tấn/ha, 3-5 năm tủ 1 lần;

- Thời kỳ cây chè mới trồng cần đặc biệt lưu ý trồng xen cây họ đậu (lạc, đỗ,…), cây có khả năng cải tạo đất cho lượng chất xanh lớn (cốt khí, chàm lá nhọn,…), cây cốt khí trồng xen có thể cho 30 - 40 tấn/ha nếu được đầu tư chăm sóc tốt;

- Đối với phát triển vùng chè mới cần có kế hoạch cải tạo đất trước khi trồng chè 2 năm từ cây cốt khí, cỏ Ghinê, lạc dại và các loại rau đậu;

- Chè sinh trưởng tốt trong khoảng pH từ 4 - 5,5, cho nên trong quá trình canh tác luôn kiểm tra pH đất để kịp thời điều chỉnh. Nếu pH cao cần sử dụng phân bón có chứa lưu huỳnh. Nếu đất trở nên quá chua (pH < 4) có thể sử dụng vôi vào thời gian đốn với lượng 2-3 tấn/ha, sử dụng có chất lượng tốt là vôi dolomitic (vôi có chứa magiê và các bonat);

- Không trồng chè trên những vùng đất có pH >5,5. Đất có pH cao thì sự sinh trưởng của cây rất kém, lá cây bị héo và rễ cây bị sùi;

- Có thể chẩn đoán pH thích hợp trong quá trình canh tác qua quan sát sinh trưởng của cây và sự có mặt của các cây chỉ thị. Nếu cây chè sinh trưởng khoẻ mạnh và có mặt các cây họ sim, mua ở xung quanh vườn chè thì đó là độ pH thích hợp.

Xói mòn đất chè:

- Xói mòn đất có thể xảy ra rất mạnh nếu không có giải pháp ngăn chặn hữu hiệu, điều quan trọng nhất là phải duy trì độ che phủ trên mặt đất bằng cây trồng lâu năm, và cây chè được coi là cây chống xói mòn hữu hiệu đối với đất dốc. Tuy vậy, mưa lớn vẫn có thể dẫn đến xói mòn đất ở vùng trồng chè, nhất là ở những vị trí không có cây chè (đường đi, khu giao nhau của các con đường, các khoảng trống khác…), thời gian chè chuẩn bị trồng mới và thời kỳ chè mới trồng chưa khép kín tán;

- Cần lưu ý là ở độ pH từ 4,5 - 5,5, chỉ một giai đoạn ngắn mặt đất không được bao phủ bởi chất hữu cơ, nước có thể làm bí đất và những thực vật kém phát triển có thể làm hỏng cấu trúc đất.
Khống chế xói mòn đất:

- Nhất thiết phải trồng chè theo những đường đồng mức, tạo độ nghiêng ra một cách đáng kể, đặc biệt những vùng có độ dốc cao >20o cần trồng cỏ Ghi nê hàng đơn, hoặc dứa Cayen, cứ sau 10 hàng chè có thể trồng phụ 1 hàng ở đường đồng mức. Cần đào những cái rãnh phù sa (toàn bộ hoặc cục bộ) ở bất cứ độ dốc nào để cản nước chảy và giữ nước. Thiết kế và đào những rãnh phù sa phải được để ý và suy xét tới sự an toàn trong quá trình chăm sóc và thu hái;

- Ở tất cả các vị trí sự mà xói mòn đất cục bộ xảy ra khốc liệt, cần phải thực hiện sự ngăn cản bằng tất các biện pháp hữu hiệu nhất (trồng cỏ, đào rãnh ngăn, trồng cây to chắn phía trên, v.v);

- Phải chú ý cẩn thận đến việc xây dựng những con mương thoát nước, những con mương này cần cắt ngang dòng chảy, chặn các dòng chảy, làm lưu lượng nước chảy chậm kết quả là làm giảm sự xói mòn. Nên trồng loại cỏ thích hợp dọc theo những con mương để cản nước và xói mòn đất trước khi nước chảy vào mương;

- Che phủ đất: Trên vùng chè chuẩn bị trồng mới, trước khi trồng chè cây che phủ đất được gieo trồng càng sớm càng tốt ngay sau khi làm đất tối thiểu. Lựa chọn các cây trồng che phủ thích hợp, cây họ đậu, cây cỏ có thể dùng làm thức ăn gia súc, cốt khí, chàm lá nhọn,… Vườn chè mới trồng cần được trồng xen cây họ đậu và tủ gốc bằng rơm rạ, hoặc cỏ khô. Ngoài ra, kỹ thuật trồng chè mật độ dày, hàng kép đối với các giống hạn chế mở rộng tán sẽ làm giảm xói mòn rất có ý nghĩa.

Không chăn thả gia súc, gia cầm trong vườn chè, không bón vào đất các loại phân có nguy cơ ô nhiễm như: Phân chuồng tươi, nước thải trực tiếp của người và động vật, nước thải sinh hoạt và nhà máy.

4. Phân bón chất phụ gia

Hiện nay, để trồng chè có hiệu quả kinh tế, đòi hỏi phải sử dụng phân bón trên tất cả các loại đất. Về nguyên tắc toàn bộ chất dinh dưỡng đưa vào, kể cả các khoáng vật từ đất và chất hữu cơ, nên tương đương lượng chất dinh dưỡng cây đã lấy đi trong quá trình thu hoạch sản phẩm, cần phải tính toán cả lượng được tổng hợp từ rễ của cây trồng che phủ đất hoặc trồng xen, lượng tồn tại trong cơ thể của cây chè. Để sử dụng hiệu quả, tiết kiệm phân bón cần phải giảm hao hụt dinh dưỡng trong các trường hợp: Dòng nước chảy cuốn đi khi mưa, khi tưới nước, sự bốc hơi nước và trong quá trình canh tác. Hết sức chú ý sự mất đạm (NO3- ) và lân dễ tiêu trên bề mặt, quá trình lắng xuống và sự xói mòn đất.

Trong quá trình cân đối đạm (N), việc bón đạm dạng vi sinh, hoặc dưới dạng đạm hữu cơ cần phải được chú ý ở mức cao nhất kết hợp bổ sung phân vi lượng sẽ luôn làm tăng hiệu quả của việc sử dụng đạm, lân và ka li cũng như các chất dinh dưỡng khác.

Tỷ lệ lấy đi và đưa vào

- Để đưa ra lời khuyến cáo tỷ lệ và liều lượng phân bón thích hợp cho các vùng chè cần có sự cân nhắc cẩn thận. Muốn sử dụng dinh dưỡng có hiệu quả cao, đòi hỏi chúng ta phải tính toán liều lượng và tỷ lệ phối hợp các nguyên tố NPK phù hợp với từng loại đất (đất có tầng canh tác dầy, đất dốc,…) và khí hậu thời tiết cụ thể của vùng;

- Trong thực tế không phải lúc nào chúng ta cũng có thể phân tích được các yếu tố trong đất để tính toán phân bón cho chè. Do vậy, ánh sáng mặt trời chiếu vào lá chè, tạo ra mầu sắc sẽ là chỉ thị giúp ta nhận biết sự thiếu hụt phân bón:

+ Lá mầu xanh tối, to, dầy, búp chè mọng nước có thể cho thấy lượng đạm sử dụng đã vượt quá mức (thừa N)

+ Ngược lại, lá nhỏ, mầu vàng nhạt, búp chè nhỏ, cứng có thể cho thấy lượng đạm sử dụng chưa đủ (thiếu N)

- Hiện nay, ở các vùng sản xuất chè các tỉnh phía Bắc mức bón phổ biến là 30 kg N/tấn búp, duy trì tỷ lệ bón NPK (3:1:1), khoảng 150 kg N/ha. Để cây chè sinh trưởng tốt nên điều chỉnh bón theo tỷ lệ 3:1:1 với lượng 30kg N/1tấn chè búp tươi + MgSO4 + ZnSO4 với lượng 5kg/ha + Phân hữu cơ vi sinh thúc 2000kg/ha.

- Ở một số vùng khác (Bảo Lộc - Lâm Đồng và Mộc Châu - Sơn La có thể đưa vào áp dụng mức phân bón khác (lượng đạm có thể thấp hơn do vùng này đất có hàm lượng mùn cao hơn các vùng chè khác).
Tuy nhiên, có một số vùng do giá búp chè cao, một số hộ đã dùng lượng đạm vô cơ tới 60-70 kgN/1tấn búp, bón không cân đối nên chất lượng chè giảm và sâu bệnh phát sinh mạnh.

Lưu ý:

- Tỷ lệ và liều lượng bón NPK, hoặc bón chất hữu cơ cần được xem xét lại một cách thường xuyên trên cơ sở phân tích để tính toán lượng chất dinh dưỡng còn lại trong đất, trong thân lá. Người trồng chè cần phải nhận được các thông số về dinh dưỡng và vấn đề chất hữu cơ đối với sản xuất chè để họ có nhận thức đầy đủ về quản lý dinh dưỡng nương chè, chống lại quan điểm trồng trọt cũ là quảng canh, bóc lột đất hoặc bón phân theo kinh nghiệm.

- Những thông số về chất hữu cơ có được do giữ lại cành lá chè đốn ở các kiểu đốn hay các chu kỳ đốn, hoặc lượng lá rụng hay tỉa cành từ cây che bóng cần được thông báo cho người sản xuất để họ có thể điều chỉnh tỷ lệ bón NPK hợp lý vào các năm sau. Chẳng hạn, nếu áp dụng chu kỳ đốn 3 năm đối với chè kinh doanh, thì lượng bón lân và kali ở năm thứ 2 và 3 sau năm đốn đầu tiên ở chu kỳ đốn có thể sẽ giảm hơn những năm trước do lượng lân và kali đã được cung cấp đáng kể từ cành lá chè đốn.

- Không nên sử dụng tro (sản phẩm sau khi đốt) của bất kỳ loại cây nào để bón cho chè (bởi vì tro là chất kiềm).

- Luôn chú ý tăng cường sử dụng chất hữu cơ, phân xanh, phân vi sinh và giảm nhu cầu sử dụng phân vô cơ.

- Nên sử dụng phân lân dạng rắn (loại trừ những khu vực có độ pH cao) và đặc biệt quan trọng là bón lót cho chè trồng mới (thường sử dụng Supe lân 600 kg/ha). Sử dụng phân lân dạng rắn sẽ cung cấp lượng phospho hoà tan dần dần cho cây chè.

- Tăng cường đưa đạm vào từ những loại sinh vật cố định đạm trồng xen canh các loại cây họ đậu khi chè ở thời kỳ kiến thiết cơ bản, hoặc những vùng trồng tiểu bậc bậc thang có thể xen kẽ trồng cây họ đậu.

- Không bón phân khoáng trong các tháng mùa khô và lúc trời mưa to, tránh bón phân trong vùng cách dòng sông hoặc mương nước 3-4m.

- Hạn chế đến mức tối đa mất mát dinh dưỡng do cỏ dại và các cây trồng xung quanh đồi chè.

5. Nước tưới

- Chỉ sử dụng nguồn nước tưới đã được xác định không bị ô nhiễm hoá chất và VSV. Không sử dụng nước từ những vùng sản xuất công nghiệp, nước thải nhà máy vì nó có thể đem lại các chất độc hại hoặc gây ô nhiễm;

- Sử dụng tưới nước bằng các phương pháp tưới tiết kiệm, tránh lãng phí;

- Chỉ nên áp dụng tưới ở những nơi mà ở đó có nguồn nước dư thừa, đầu tư cho tưới thấp và sản xuất chè có hiệu quả cao;

- Cần phải có nhà máy xử lý nước, không để nước thải trực tiếp của các nhà máy chảy vào các dòng sông hay kênh suối; cần cung cấp thiết bị tốt nhất cho việc thực hiện xử lý nước cung cấp cho cộng đồng;

- Luôn chú trọng xây dựng và bảo trì các đập nước và hệ thống dẫn nước;

- Xây dựng nhà với kiểu mái lợp thích hợp để có thể thu giữ nước mưa vào trong các thùng chứa để phục dự trữ nước;

6. Bảo vệ thực vật và sử dụng hoá chất

Quản lý dịch hại (IPM) là chìa khoá để duy trì sự điều khiển dịch hại, mục đích là áp dụng các biện pháp canh tác, biện pháp sinh học, biện pháp cơ giới, biện pháp hoá học hoặc những kỹ thuật khác phòng trừ dịch hại để giảm tới mức thấp nhất sử dụng hoá chất diệt côn trùng. IPM là xem xét cẩn thận tất cả các phương pháp có sẵn và kế tiếp để điều khiển dịch hại và đặc biệt chú trọng sử dụng biện pháp sinh học, duy trì cân bằng tự nhiên, điều này ngăn chặn sự phát triển số lượng sâu bệnh không gây thành dịch hại (không bùng phát dịch). Tất nhiên chúng ta cũng có thể sử dụng hoá chất diệt côn trùng và những sự can thiệp khác khi mật độ sâu bệnh hại tới ngưỡng kinh tế. IPM sẽ giảm tối thiểu ảnh hưởng tới sức khoẻ con người và môi trường.

Hiểu biết về sâu bệnh hại:

Ở mỗi vùng chè, người trồng chè cần phải nắm chắc điều kiện đất đai, khí hậu của địa phương, bệnh nào thường xuyên phát sinh (vùng cao thường hay xuất hiện bệnh phồng lá chè, vùng Trung du, vùng chè thấp thường hay xuất hiện bệnh đốm nâu, bệnh tóc đen, v.v). Trong mọi trường hợp, đối với bệnh hại chè cần khuyến cáo người dân sử dụng biện pháp canh tác (trồng trọt), hạn chế thấp nhất sử dụng thuốc hoá học.
Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đã xây dựng được nhiều mô hình lớn trong 3 năm liên tục không sử dụng thuốc hoá học trừ sâu, trừ vi khuẩn và trừ nấm trên chè kinh doanh (chè trưởng thành) tại các tỉnh Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái, Lâm Đồng,... Chè được bón cân đối và đầy đủ phân đa và vi lượng, đạm và lân đuợc cung cấp dưới dạng phân hữu cơ sinh học, cây chè sinh trưởng rất tốt nên các đối tượng gây hại như nhện đỏ, bọ cánh tơ, rầy xanh, rệp thì không cần áp dụng các hoá chất diệt côn trùng.

Hiện nay ở tỉnh Nghệ An, phần lớn các vùng chè sản xuất không sử dụng thuốc trừ sâu hoá học, do ở đây đã thiết lập được một cân bằng sinh thái trong vùng chè rộng lớn.

Việc áp dụng các chất hóa học sẽ giết chết thiên địch tự nhiên của sâu hại chè (chủ yếu là các loại nhện ăn mồi) và từ đó dịch hại phát triển. Do đó thuốc hoá học thường chỉ sử dụng trong trường hợp không thể tránh (dịch hại bùng phát) và phải nằm trong một chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM).

Yêu cầu chìa khoá của một hệ thống IPM bao gồm:

- Không sử dụng thuốc hoá học để phun phòng sâu bệnh;

- Phòng trừ bằng những biện pháp canh tác (trồng trọt) thông thường, như trồng giống khoẻ, chăm sóc tốt và duy trì việc trồng cây che bóng, cây trồng xen, duy trì che phủ đất;

- Mở rộng việc tìm hiểu về diễn biến của các đối tượng gây hại chính, tìm hiểu về sự phát triển của thiên địch;

- Thiết lập các ngưỡng gây hại của các tác nhân gây hại chính (rầy xanh, nhện đỏ, bọ cánh tơ, bọ xít muỗi), dựa vào mức thiệt hại kinh tế (Rầy xanh 3-5 con rầy non/khay, Bọ cánh tơ 4 con/lá, Nhện đỏ 3 con/lá, Bọ xít muỗi bắt đầu thấy lác đác chòm lá có vết kim châm màu đen …);

- Trong trường hợp sử dụng thuốc hoá học trừ dịch hại là cần thiết, thì tính chọn lọc của thuốc là quan trọng để giảm bớt sự mất cân bằng sinh thái, an toàn sản phẩm và đảm bảo sự an toàn cho người lao động;

- Sử dụng thuốc trừ dịch hại (Thuốc BVTV):

+ Người sử dụng thuốc phải được được huấn luyện (đào tạo) về các nguyên tắc sử dụng thuốc BVTV (phun đúng thuốc, phun đúng lúc, đúng nồng độ, đúng liều lượng, phun đúng địa điểm, chỗ nào chưa cần phun thì không được phun) và những thiết bị phun, quần áo bảo hộ lao động, v.v.

+ Thuốc BVTV khi sử dụng cần phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ đúng với danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng trên chè của Bộ Nông nghiệp và PTNT phê duyệt.

+ Thuốc BVTV cần phải được chọn lọc cao dựa trên mức độ ảnh hưởng của nó tới hệ sinh thái, mức độ an toàn của sản phẩm, giảm sự nguy hiểm tới người lao động và môi trường.

+ Việc quyết định mua thuốc hoá học cần phải nắm được đặc điểm của thuốc (những thuốc có giá thấp, có thể chứa đựng chất độc cao) và số lượng mua không nên vượt quá số lượng cần, cố gắng sử dụng được hết trước hạn sử dụng của nó.

+ Thuốc BVTV cần được cất giữ cẩn thận, an toàn và đúng phương thức, bao gói thuốc phải có hướng dẫn thật cụ thể, đưa ra những trường hợp cấm được sử dụng và cách xử lý trong những trường hợp có sự cố xẩy ra, định nghĩa rõ ràng và có hiệu lực đối với từng loại thuốc.

+ Dụng cụ bơm thuốc cần được sắp đặt và bảo quản cẩn thận tránh gây ô nhiễm.

+ Những dụng cụ cá nhân phải được rửa sạch sẽ sau khi sử dụng thuốc BVTV, tất cả quần áo và thiết bị sử dụng phải được rửa sạch ở một vị trí phù hợp.

+ Phải có thói quen kiểm tra sức khoẻ cho người lao động và phải có biện pháp sơ cứu tại chỗ khi người lao động bị thuốc xâm nhập.

Một chương trình IPM phải đạt được yêu cầu:

Đảm bảo cho sản phẩm chè vừa an toàn, vừa chất lượng, bảo vệ được thiên địch, bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ sức khoẻ con người. Muốn vậy, một chương trình IPM phải được triển khai một cách nghiêm túc, trong đó các biện pháp: Đốn đúng thời vụ; hái đúng kỹ thuật; bón phân hợp lý (sử dụng phân hữu cơ, phân vi sinh, phân hữu cơ sinh học, phân có nguồn gốc hữu cơ kết hợp với tủ gốc và tưới nước để cây chè sinh trưởng khoẻ, có khả năng chống chịu tốt); điều tra định kỳ để sớm xác định được đối tượng sâu hại, thời điểm trừ sâu có hiệu quả và điều quan trọng hơn là khi mật độ sâu chưa đến mức phun thuốc thì không sử dụng thuốc hoá học; chỉ dùng thuốc khi số lượng sâu hại vượt quá ngưỡng phòng trừ, khi mật độ sâu hại chưa đến mức bùng phát dịch chỉ nên dùng thuốc có nguồn gốc thảo mộc (hiện nay có một số thuốc thảo mộc mới trừ sâu rất có hiệu quả như SH01, Sukupi,...). Khi bùng phát dịch hại cần phun thuốc hoá học trong danh mục cho phép trên cây chè của Bộ Nông nghiệp & PTNT (Nhện đỏ nên dùng Comite; Rầy xanh dùng Actara, Acelant,…; Cánh tơ dùng Agbamex, Confido,...). Nên sử dụng máy động cơ phun dung dịch thuốc hoá học (600lít – 1000lít/ha) với chè sản xuất kinh doanh. Bảo đảm thời gian cách ly sau phun thuốc tối thiểu là 10 ngày, một năm phun thuốc hoá học không quá 6 lần. Các doanh nghiệp chè nên thành lập tổ phòng trừ sâu bệnh riêng, các hộ nông dân cần tuyệt đối tuân theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật.

Tại Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, nguyên liệu chè được sản xuất theo qui trình trên dư lượng thuốc BVTV trên sản phẩm đều thấp so với tiêu chuẩn qui định của Bộ Y tế, năng suất và chất lượng chè tăng, thiên địch trên vườn chè phát triển, nâng cao được độ phì đất, cải thiện môi trường sinh thái.

Phòng trừ cỏ dại:

- Đặc biệt chú trọng biện pháp tủ gốc hoặc trồng cây phủ đất để khống chế cỏ dại;

- Chấp nhận chi phí cao để có được các thiết bị làm cỏ bằng máy móc;

- Việc nhổ cỏ bằng tay được quản lý giới thiệu một cách thích hợp để cố gắng không sử dụng thuốc hoá học diệt cỏ;

- Trong trường hợp không thể tránh được dùng thuốc diệt cỏ thì cần lưu ý: Sử dụng thuốc diệt cỏ phải đảm bảo an toàn về sinh thái học, sức khoẻ con người và môi trường.

Để phòng trừ cỏ dại đạt hiệu quả và giảm bớt sự nguy hiểm do phát sinh tính kháng thuốc diệt cỏ, thì một chương trình thay đổi thành phần của thuốc một cách tích cực phải thường xuyên được đưa ra giới thiệu.
Các loại thuốc diệt cỏ sử dụng cần phải giảm đến mức tối thiểu chất hoá học giải phóng ra và tồn đọng trong đất.

7. Thu hoạch và sử lý sau thu hoạch

Áp dụng kỹ thuật hái theo khống chế chiều cao vết hái của vụ chè xuân 10 cm, có nghĩa là vụ chè hái đầu tiên trong năm chỉ hái những búp có chiều cao trên 10 cm tính từ vết đốn, những lần hái sau phẩm cấp theo yêu cầu chế biến các sản phẩm chè.

Khi thu hái chè (bằng tay hoặc máy) nên đựng trong các giỏ hoặc sọt chắc, nhẹ, không có mùi lạ.

- Chè bỏ vào sọt không được lèn chặt, tránh làm dập nát chè;

- Chè tươi sau khi thu hái phải được đưa ngay về nơi chế biến (chậm nhất không quá 8h);

- Chè đưa về xưởng phải được xác định hàm lượng nước và phân thành các loại A, B, C, D. Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 1053-86 để dễ bảo quản;

- Chè bảo quản tại chỗ để chờ chế biến cần được rũ tơi, rải đều trên nền sạch, nhẵn, chiều dày rải chè không quá 20cm, cách tường 20cm.

- Cố gắng rải riêng từng loại chè A, B và C, D giữa có khoảng trống làm lối đi lại, tránh dẫm đạp lên chè;

- Phòng bảo quản phải thoáng, mát, không bị mưa nắng hắt vào;

- Sau 2 - 3h bảo quản dùng sào tre hoặc dùng tay rũ nguyên liệu một lần, không dùng cào sắt để tránh làm dập nát chè;

- Chè vào dây chuyền sản xuất phải cân đối, nhịp nhàng không để ùn đống ở đầu dây chuyền;

- Nguyên liệu chè phải được chế biến với Qui trình công nghệ và thiết bị đạt trình độ tiên tiến và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm;


Một sản phẩm của chè Thái Nguyên

8. Quản lý và sử lý chất thải

- Cần có qui hoạch thật cụ thể địa điểm sử lý chất thải trong vùng chè, đảm bảo an toàn cho con người và môi trường.

- Toàn bộ bao gói phân bón, thuốc BVTV và các sản phẩm khác sau khi sử dụng cho chè phải được thu gom lại, không được vất bừa bãi trên nương chè. Các sản phảm thu gom nên phân làm 2 loại, loại tái sinh được đưa về nơi chứa để có thể tiếp tục tái chế, loại không tái sinh được cần phải được chôn vùi hoặc tiêu huỷ.

9. Người lao động

An toàn lao động:

- Những người mắc bệnh dễ lây như cảm cúm, sốt siêu vi trùng, tả, thương hàn… các loại bệnh da liễu, vết thương, mụn nhọt có khả năng gây nhiễm bẩn cho chè, phải nghỉ việc để điều trị tới khi khỏi hẳn mới được tiếp tục làm việc.

- Người được giao nhiệm vụ quản lý và sử dụng hoá chất phải có kiến thức và kỹ năng về hóa chất và phải có kỹ năng ghi chép.

- Tổ chức và cá nhân phải cung cấp trang thiết bị và áp dụng các biện pháp sơ cứu hộ cần thiết và đưa đến bệnh viện gần nhất để điều trị khi người lao động bị nhiễm hóa chất.

- Phải có tài liệu hướng dẫn các bước sơ cứu và dán tại kho chứa hoá chất.

- Người lao động được giao nhiệm vụ xử lý và sử dụng hoá chất hoặc tiếp cận các vùng mới phun thuốc phải được trang bị quần áo bảo hộ và thiết bị phun thuốc.

- Quần áo bảo hộ lao động phải được giặt sạch và không được để chung với thuốc bảo vệ thực vật.

Điều kiện làm việc: Nhà làm việc thoáng mát, mật độ người làm việc hợp lý. Điều kiện làm việc phải đảm bảo và phù hợp với sức khỏe người lao động. Người lao động phải được cung cấp quần áo bảo hộ. Các phương tiện, trang thiết bị, công cụ (các thiết bị điện và cơ khí) phải thường xuyên được kiểm tra, bảo dưỡng nhằm tránh rủi ro gây tai nạn cho người sử dụng. Phải có quy trình thao tác an toàn nhằm hạn chế tối đa rủi ro do di chuyển hoặc nâng vác các vật nặng.

Phúc lợi xã hội của người lao động: Tuổi lao động phải phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam. Khu nhà ở cho người lao động phải phù hợp với điều kiện sinh hoạt và có những thiết bị, dịch vụ cơ bản. Lương, thù lao cho người lao động phải hợp lý, phù hợp với pháp luật về lao động Việt Nam.

Đào tạo: Trước khi làm việc, người lao động phải được thông báo về những nguy cơ liên quan đến sức khoẻ và điều kiện an toàn. Người lao động phải được tập huấn công việc trong các lĩnh vực dưới đây:

- Phương pháp sử dụng các trang thiết bị, dụng cụ.

- Các hướng dẫn sơ cứu tai nạn lao động.

- Sử dụng an toàn các hoá chất, vệ sinh cá nhân.

10. Ghi chép, lưu trữ hồ sơ, truy nguyên nguồn gốc và thu hồi sản phẩm

- Tổ chức và cá nhân sản xuất chè theo GAP phải ghi chép đầy đủ nhật ký sản xuất, nhật ký về BVTV, phân bón, bán sản phẩm, v.v.

- Tổ chức và cá nhân sản xuất theo GAP phải tự kiểm tra hoặc thuê kiểm tra viên kiểm tra nội bộ xem việc thực hiện sản xuất, ghi chép và lưu trữ hồ sơ đã đạt yêu cầu chưa. Nếu chưa thì phải có biện pháp khắc phục và phải được lưu trong hồ sơ.

- Hồ sơ phải được thiết lập cho từng chi tiết trong các khâu thực hành GAP và được lưu giữ tại cơ sở sản xuất.

- Hồ sơ phải được lưu trữ ít nhất hai năm hoặc lâu hơn nếu có yêu cầu của khách hàng hoặc cơ quan quản lý.

- Sản phẩm sản xuất theo GAP phải được ghi rõ vị trí và mã số của lô sản xuất. Vị trí và mã số của lô sản xuất phải được lập hồ sơ và lưu trữ.

- Bao bì, túi đựng sản phẩm cần có nhãn mác để giúp việc truy nguyên nguồn gốc được dễ dàng.

- Mỗi khi xuất hang, phải ghi chép rõ thời gian cung cấp, nơi nhận và lưu giữ hồ sơ cho từng lô sản phẩm.

- Khi phát hiện sản phẩm bị ô nhiễm hoặc có nguy cơ ô nhiễm, phải cách ly lô sản phẩm đó và ngừng phân phối. Nếu đã phân phối, phải thông báo ngay tới người sản xuất, chế biến hoặc kinh doanh

- Điều tra nguyên nhân ô nhiễm và thực hiện các biện pháp ngăn ngừa tái nhiễm, đồng thời có hồ sơ ghi lại nguy cơ và giải pháp xử lý.

11. Kiểm tra nội bộ

- Tổ chức và cá nhân sản xuất chè phải tiến hành kiểm tra nội bộ ít nhất mỗi năm một lần.

- Việc kiểm tra phải được thực hiện theo bảng kiểm tra đánh giá. Sau khi kiểm tra xong, tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc kiểm tra viên có nhiệm vụ ký vào bảng kiểm tra đánh giá. Bảng tự kiểm tra đánh giá và bảng kiểm tra đột xuất và định kỳ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải được lưu trong hồ sơ.

- Tổ chức và cá nhân sản xuất theo VietGAP phải tổng kết và báo cáo kết quả kiểm tra cho cơ quan quản lý chất lượng.

12. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại

- Tổ chức và cá nhân sản xuất theo VietGAP phải có sẵn mẫu khiếu nại khi khách hàng có yêu cầu.

- Trong trường hợp có khiếu nại, tổ chức và cá nhân sản xuất theo VietGAP phải có trách nhiệm giải quyết theo quy định của pháp luật, đồng thời lưu đơn khiếu nại và kết quả giải quyết vào hồ sơ.
 
Thành Long
(Nguồn: TS. Nguyễn Hữu Phong, Viện KHKT Nông lâm nghiệp Miền núi phía Bắc)

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×