Kỷ niệm 200 năm ngày sinh C.Mác (5/5/1818- 5/5/2018): C.Mác - nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại

Thứ sáu, 04/05/2018

Năm 2018, nhân loại tiến bộ kỷ niệm 200 năm ngày sinh C.Mác (5/5/1818- 5/5/2018), Nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, một trong những nhà khoa học lớn nhất của thế giới trong thiên niên kỷ thứ hai của nhân loại. Có thể nói, những cống hiến vĩ đại của C.Mác được thể hiện trên nhiều phương diện, ở cả lý luận và thực tiễn.
Năm 2018, nhân loại tiến bộ kỷ niệm 200 năm ngày sinh C.Mác (5/5/1818- 5/5/2018), Nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, một trong những nhà khoa học lớn nhất của thế giới trong thiên niên kỷ thứ hai của nhân loại. Có thể nói, những cống hiến vĩ đại của C.Mác được thể hiện trên nhiều phương diện, ở cả lý luận và thực tiễn.

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Ảnh: Tư liệu.

Năm nay, nhân loại tiến bộ kỷ niệm 200 năm Ngày sinh C.Mác (Karl Marx)-Nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Nhân loại mãi mãi khắc ghi những cống hiến to lớn của C.Mác -Người đã cùng Ph.Ăng-ghen (Friedrich Engels) xây dựng nên hệ thống lý luận cách mạng và khoa học, là kim chỉ nam, vũ khí tinh thần sắc bén, soi sáng sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng cao cả của C.Mác đã đi vào lịch sử thế giới như một trong những ngôi sao sáng nhất trên bầu trời trí tuệ nhân loại, đúng như Ph.Ăng-ghen đã khẳng định: “Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi”. Trong di sản lý luận kinh điển đồ sộ và uyên bác của C.Mác, bộ sách “Tư bản” mà Người coi là sự nghiệp của cả đời mình và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và Ph.Ăng-ghen xuất bản lần đầu vào năm 1848, là những tác phẩm bất hủ, có tầm ảnh hưởng rộng lớn trên thế giới.
 

Thân thế sự nghiệp


Các Mác sinh ngày mồng 5 tháng 5 năm 1818 ở Tơ-ri-vơ thuộc nước Phổ. Cha của Mác là luật sư. Sau khi tốt nghiệp trung học, Mác vào học đại học tổng hợp ở Bon, rồi sau đó học ở trường đại học tổng hợp Béc-lanh. Mác học luật, lịch sử và triết học. Tháng 10 năm 1842, Mác trở thành chủ bút của Báo Rê-na-ri của giai cấp tư sản cấp tiến ở Đức hồi ấy. Trong các bài báo, Mác đã phê phán các chính phủ đương thời ở Đức, Anh, Pháp và bênh vực quyền lợi của nông dân, phát biểu những tư tưởng triết học của mình.Thời kỳ này, Mác đang chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản.

Tháng 6-1843, Mác kết hôn với Gienni Phôn Vextơphalen, người bạn gái hồi nhỏ của mình. Tháng 10-1843, Mác đến ở Pa-ri, thủ đô nước Pháp, tiếp tục viết báo. Tháng 9-1844, Mác gặp Ăng-ghen ở Pa-ri. Tình bạn vĩ đại và cuộc đấu tranh chung của hai người cho sự nghiệp của giai cấp công nhân bắt đầu từ đấy. Mác và Ăng-ghen tích cực tham gia sinh hoạt với các nhóm cách mạng ở Pa-ri, hai ông đấu tranh quyết liệt chống mọi thứ học thuyết của chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản và đã sáng lập ra lý luận và sách lược của chủ nghĩa xã hội vô sản cách mạng, hay là chủ nghĩa cộng sản. Năm 1845, Mác bị trục xuất khỏi Pa-ri vì bị coi là một nhà cách mạng nguy hiểm. Mác sang ở Bruy-xen, thủ đô nước Bỉ.

Mùa xuân 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập Liên minh những người cộng sản. Đó là tổ chức đầu tiên mang tính chất quốc tế của phong trào công nhân, gồm nhiều nhà lãnh đạo của các hội công nhân ở Đức, Anh, Pháp, Bỉ, Hung-ga-ri, Ba-lan, v.v… Theo yêu cầu của Đại hội lần thứ hai của Liên minh họp tháng 11-1847 ở Luân-đôn, thủ đô nước Anh, Mác và Ăng-ghen thảo bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, xuất bản tháng 2 năm 1848. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Năm 1848, Mác bị trục xuất khỏi nước Bỉ và về ở Pa-ri, rồi về ở Đức, xuất bản tờ Báo Rê-na-ni mới. Bị truy tố trước tòa án, Mác lại bị trục xuất và sang ở Pa-ri. Tháng 6-1849, Mác lại bị trục xuất khỏi Pa-ri và sang ở Luân-đôn cho đến khi mất. Ở Luân-đôn, Mác viết các tác phẩm tổng kết kinh nghiệm các cuộc đấu tranh cách mạng ở Pháp từ 1848 đến 1851, các tác phẩm về triết học, về chính trị kinh tế học. Năm 1867, quyển đầu tiên của bộ Tư bản ra đời. Bộ Tư bản nêu ra lý luận về sự phát sinh, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản; nó chứng minh bằng lý luận hết sức chặt chẽ và chính xác "lịch sử đẫm máu của chủ nghĩa tư bản", sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. Bộ Tư bản xây dựng cơ sở lý luận khoa học cho chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội từ chỗ là "chủ nghĩa xã hội không tưởng" của các nhà tư tưởng trước Mác trở thành "chủ nghĩa xã hội khoa học". BộTư bản là ngọn đèn pha soi sáng cho cách mạng vô sản thế giới, vũ trang cho giai cấp vô sản lý luận và niềm tin không gì lay chuyển nổi về sứ mệnh lịch sử của mình, về sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Cùng với Tuyên ngôn của Đảng cộng sản bộ Tư bản là bộ sách gối đầu giường của những người vô sản giác ngộ.

Mác không chỉ là nhà lý luận thiên tài mà trước hết, Mác là nhà cách mạng vĩ đại. Trước phong trào công nhân đang lên, Mác ra sức hoạt động thực tiễn. Năm 1864, ở Luân-đôn thành lập Hội liên hiệp quốc tế những người lao động, tức Quốc tế thứ nhất. Mác là người cổ vũ và lãnh đạo chủ chốt của Quốc tế thứ nhất. Mác đấu tranh chống các thứ chủ nghĩa cơ hội trong phong trào công nhân, chống bọn vô chính phủ và định ra sách lược cách mạng cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân.

Cuộc đời chiến đấu quyết liệt và không mệt mỏi chống mọi kẻ thù của giai cấp vô sản, chống lại các thứ trào lưu tư tưởng không vô sản và chống vô sản, sự làm việc rất khẩn trương mà công tác lý luận đòi hỏi, sự nghèo khổ của cuộc sống lưu vong cộng với bệnh tật và những đau thương trong gia đình làm cho sức khỏe của Mác ngày càng suy yếu. Ngày 2 tháng 12 năm 1881, Gienni mất. Đến ngày 14 tháng 3 năm 1883, Mác yên giấc nghìn thu trên chiếc ghế bành, trước bàn làm việc. Trong bức thư báo tin buồn cho bạn, Ăng-ghen viết: "Thế là cái trí tuệ mạnh mẽ nhất của Đảng ta đã ngừng suy nghĩ, trái tim mạnh mẽ nhất mà tôi chưa từng thấy đã ngừng đập mất rồi". Và khi đọc điếu văn trước mộ Mác, Ăng-ghen nói: "Con người ấy mất đi, thật không sao có thể lường cho hết tổn thất đối với giai cấp vô sản chiến đấu của châu Âu và châu Mỹ, tổn thất đối với khoa học lịch sử. Không bao lâu, chúng ta sẽ cảm thấy nỗi trống trải sau cái chết của bậc vĩ nhân ấy".

Ca ngợi tình bạn vĩ đại, mối quan hệ khăng khít, bền lâu giữa Mác với Ăng-ghen, Lê-nin viết: "Chuyện cổ kể lại những tấm gương rất cảm động về tình bạn. Nhưng giai cấp vô sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình đã do hai nhà bác học và chiến sĩ ấy sáng tạo ra, những quan hệ cá nhân giữa hai người đã vượt tất cả những chuyện cổ cảm động nhất của người xưa nói về tình bạn" (Mác - Ăng-ghen, chủ nghĩa Mác). Từ lúc còn trẻ, hai người đã có sự thống nhất chặt chẽ về tư tưởng và tình cảm, thường cùng làm việc với nhau mỗi khi ở gần nhau. Sau khi cuộc cách mạng 1848 ở Đức bị thất bại, Ăng-ghen phải đến làm việc ở Mansextơ, một thành phố công nghiệp của Anh lấy tiền giúp đỡ gia đình Mác. Còn Mác thì ở Luân-đôn. Trong ngót hai mươi năm trời xa nhau, mỗi ngày hai người đều viết cho nhau những ý nghĩ của mình về những sự biến chính trị và khoa học đương thời, cùng nhau trao đổi công việc. Mác rất tự hào về Ăng-ghen, về đạo đức và tài trí của Ăng-ghen.

Cuộc đời và sự nghiệp của Mác đã hòa hợp một cách hữu cơ những đặc điểm của một nhà bác học vĩ đại, một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi, một người phát hiện đầu tiên những chân lý khoa học, một nhà chính luận cách mạng nồng nhiệt, một nhà chiến lược và sách lược vô sản sáng suốt, một nhà lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng vô sản. Mác nổi bật về đức tính cao cả của con người, giản dị, nhiệt tình và yêu đời, có ý chí bất khuất và năng lực lao động khác thường, can đảm và anh dũng. Đó là một cuộc đời đầy gian khổ nhưng vô cùng xán lạn, một mẫu mực về tính khoa học và tình cảm cách mạng cao cả.

Cuộc đời và hoạt động của Mác đã đi vào lịch sử nhân loại với vị trí nổi bật trong hàng ngũ những vĩ nhân, đúng như Ăng-ghen nói: "“Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi".
 

Hai phát minh vĩ đại nhất


Nếu như trước đó chưa ai phát hiện ra quy luật vận động khách quan của lịch sử, thì Mác đã có phát minh về tiến trình lịch sử nhân loại, được diễn ra theo 5 hình thái kinh tế xã hội: Chế độ cộng sản nguyên thủy, chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản và thứ 5 là sự tất yếu đi tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.

C.Mác đã dùng tư duy biện chứng khách quan, kế thừa những phương pháp luận khoa học, hạt nhân hợp lý của triết học cổ điển trước đây để phân tích, nhìn nhận lịch sử loài người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác là một thế giới quan khoa học, một cách nhìn nhận khoa học đầy đủ nhất, toàn diện nhất, khắc phục được những khuyết điểm trước đó để đánh giá về lịch sử nhân loại.

Cho đến nay, lý thuyết về chủ nghĩa duy vật lịch sử ấy vẫn hoàn toàn khoa học, hoàn toàn đứng vững. Mỗi hình thái kinh tế xã hội khi phát triển đều có sự kế thừa và phát triển, từ đó đi đến kết luận về quy luật lịch sử, loài người tất yếu sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Từ đó, các đảng cộng sản trên thế giới vận dụng lý thuyết ấy mà thúc đẩy quá trình cách mạng xã hội, để xóa bỏ áp bức bất công của chủ nghĩa tư bản, tạo lập và xây dựng một xã hội tốt đẹp, đó là chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam cũng như vậy. Bác Hồ đã tiếp nhận tư tưởng ấy và chỉ ra đường hướng phát triển của Cách mạng Việt Nam là phải giành cho được độc lập dân tộc. Đó là tiền đề quan trọng để tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Có thể khẳng định, đây là di sản đặc biệt quan trọng và lớn nhất của C.Mác. Gắn liền với quá trình ấy phải tiến hành một cuộc cách mạng xã hội, chuyển biến căn bản từ xã hội cũ sang xã hội mới mà chúng ta đang tiến hành hiện nay.

Di sản thứ hai, cũng là phát minh vĩ đại của Mác, đó là Mác đã phân tích, mổ xẻ bản chất kinh tế của chế độ tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu từ bản chất kinh tế và kể cả sự cống hiến của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là bản chất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, rồi quy luật vận động trong lòng xã hội tư bản… Từ đó, Mác đã phát hiện ra quy luật, học thuyết về giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Sau này, đến thời đại đế quốc, lý thuyết về giá trị thặng dư tiếp tục phát triển. Đến nay, lý thuyết này vẫn còn nguyên giá trị.

Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản hiện nay, người ta càng đi vào sâu để nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của Mác. Trong sự vận động sản xuất xã hội hiện nay cũng làm rõ thêm học thuyết lý luận của Mác về giá trị thặng dư.
 

Thiên tài dự báo


Ngoài hai phát minh vĩ đại trên, Mác cùng Ph.Ăng-ghen khởi xướng thành lập một chính đảng cách mạng, tức đảng cộng sản, với bản tuyên ngôn ra đời vào năm 1848. Đảng cộng sản ấy đã tiên phong trong sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội, đó là giai cấp vô sản, xóa bỏ áp bức bất công, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới.

Cùng với đó, Mác đã có những dự báo rất quan trọng, ví dụ như dự báo về sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Khi nghiên cứu trong chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, từ đó ông đã dự báo sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong tương lai.

Với dự báo này, từ cuối thế kỷ 19 đến nay, nhân loại đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp: Cách mạng cơ khí hóa, điện khí hóa, cách mạng máy tính và tự động hóa và hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư - cách mạng 4.0 dựa trên sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, IoT, Robot, dữ liệu lớn. Có thể nói Mác là một thiên tài khi đưa ra dự báo về sự phát triển lịch sử nhân loại.

Ngoài ra còn một dự báo nữa cũng rất lý thú. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác cũng từng dự báo với sự phát triển của sản xuất, tìm kiếm thị trường, thì sự phát triển của thị trường sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn. Từ đó sẽ phá vỡ rào cản biên giới các quốc gia, trở thành thị trường thế giới.

Thực tế cho thấy, từ thế kỷ 19, các nước phương Tây đã mở rộng thị trường, tìm kiếm thuộc địa, ra đời chính sách thực dân, tìm kiếm thị trường mới. Đến bây giờ đã trở thành thị trường thế giới, thị trường toàn cầu. Dự báo đó báo hiệu các ranh giới giữa các quốc gia, dân tộc sẽ bị phá vỡ khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Ngày nay, với xu hướng toàn cầu hóa, sự phát triển thị trường thế giới đã chứng minh cho luận điệu đó của Mác.

Được biết, trong dịp kỷ niệm 200 ngày sinh C.Mác, tại quê hương ông sẽ khánh thành tượng đài Mác. Đó là cách ghi nhận công lao và những đóng góp của ông. C.Mác cũng được xếp vào 1 trong 10 nhà khoa học lớn nhất của thế giới trong thiên niên kỷ thứ hai của nhân loại.
 
                                                                                                                      BTV tổng hợp

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×