Kỹ thuật giâm cành chè (P1)

Thứ bảy, 08/06/2019

Giâm cành chè là biện pháp nhân giống vô tính, từ một đoạn cành chè bao gồm 1-2 lá cùng với chối nách (hom chè) đem giâm trên một nền vật liệu (đất, cát...) để tạo thành cây mới.
Giâm cành chè là biện pháp nhân giống vô tính, từ một đoạn cành chè bao gồm 1-2 lá cùng với chối nách (hom chè) đem giâm trên một nền vật liệu (đất, cát...) để tạo thành cây mới.
 

 

1. Đặc điểm phương pháp nhân giống chè bằng cành.


Sau khi chọn được giống tốt hoặc những cây đầu dòng ưu tú, cần phải tiến hành nhân giống với số lượng lớn để phục vụ sản xuất. Hiện nay trong sản xuất áp dụng phương nhân giống chè vô tính (giâm cành).

Giâm cành là biện pháp nhân giống vô tính, từ một đoạn cành chè bao gồm 1 - 2 lá cùng với chồi nách đem giâm trên một nền vật liệu (đất, cát) để tạo thành cây mới.

Phương pháp giâm cành có ưu và nhược điểm sau:

1.1. Ưu điểm:

- Quần thể đồng đều, giữ nguyên đặc tính cây mẹ.

- Năng suất cao, chất lượng và tính chống chịu ổn định.

- Hệ số nhân giống cao hơn nhân giống bằng hạt từ 15 - 20 lần.

1.2. Nhược điểm:

- Đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật công phu.

- Giá thành cao hơn nhân giống bằng hạt (thông thường chi phí trồng cành gấp 6 - 8 lần so với trồng bằng hạt).
 

2. Khái niệm về giâm cành chè


Giâm cành chè là biện pháp nhân giống vô tính, từ một đoạn cành chè bao gồm 1-2 lá cùng với chối nách (hom chè) đem giâm trên một nền vật liệu (đất, cát...) để tạo thành cây mới. Đây là cây giống để trồng.

Có 2 phương pháp nhân giống chè là: nhân giống hữu tính (bằng hạt) và nhân giống vô tính (bằng giâm cành, chiết cành, ghép cành và nuôi cấy mô), nhưng phổ biến và thông dụng nhất hiện nay là nhân giống vô tính bằng giâm cành.

- Nhân giống hữu tính (bằng hạt):

+ Có ưu điểm là dễ làm, đơn giản và giá thành thấp.

+ Nhưng nhược điểm là: quần thể không đồng đều, không giữ nguyên đặc tính cây mẹ, năng suất không cao, chất lượng chè và tính chống chịu không ổn định, hệ số nhân giống thấp.

- Nhân giống chè vô tính bằng giâm cành

+ Có ưu điểm là: quần thể đồng đều, giữ nguyên đặc tính cây mẹ, năng suất cao, chất lượng  và tính chống chịu ổn định, hệ số nhân giống lớn.

+ Nhưng nhược điểm là: Đòi hỏi kỹ thuật công phu, giá thành cao hơn nhân giống bằng hạt (thông thương chi phí trồng cành gấp 6-8 lần so với trồng bằng hạt).

Trong thực tế nhân giống bằng hạt (mặc dù hạt đã được tuyển chọn cẩn thận) tiêu chuẩn hạt giống tốt nhưng cây chè vẫn không đồng đều, có cây phát triển khoẻ, có cây sinh trưởng yếu. Màu sắc và hình thái mỗi cây mỗi vẻ là do đặc tính phân ly tính trạng rất mạnh đối với cây giao phấn như cây chè. Thời gian (kiến thức cơ bản) cây chè trồng hạt dài là 4 năm, trong khi đó chè trồng cành chỉ 2-3 năm.

    Nhân giống bằng giâm cành có hệ số nhân giống cao hơn nhân bằng hạt 15-20 lần. Một ha chè để giống quả chỉ trồng được 4 ha, trong khi đó 1ha để hom giâm có thể trồng được 80 ha. Chính vì vậy đã từ lâu phương pháp nhân giống bằng giâm cành đã trở thành một tiến bộ khoa học được sử dụng rộng rãi trong sản xuất để trồng những nương chè có năng suất cao, chất lượng tốt,chống chịu được sâu bệnh. Chỉ ở một số nơi do yêu cầu sản xuất, không có giống gốc để giâm cành tại chỗ, kinh phí hạn chế, trình độ kỹ thuật yếu, xa trung tâm sản xuất giống thì mới nhân giống bằng hạt.
 

3. Phương pháp giâm cành


Hiện nay giâm cành chè là phương pháp phổ biến trong nhân giống chè trên thế giới. Giâm cành chè được nghiên cứu ở Trung Quốc từ năm 1900 và Ấn Độ năm 1911, Grudia năm 1928, Srilanca 1938. Việt Nam năm 1938 (ở Miền Nam) bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng trong sản xuất.

3.1. Cơ sở khoa học của giâm cành

Đối với thực vật nói chung, cây chè nói riêng để duy trì nòi giống của mình chúng đều phải thông qua cơ quan sinh sản, hoặc chúng có khả năng tái sinh từ các bộ phận của các cơ quan sinh dưỡng như: lá, chồi, thân, rễ...Nếu đưa các bộ phận của chúng vào môi trường thích hợp nó sẽ phát triển thành rễ, mầm và hình thành cây con. Phương pháp giâm cành chè là sử dụng một bộ phận gồm đoạn thân lá (cơ quan dinh dưỡng) để tái sinh ra cây chè mới.

Phiến lá của hom chè là cơ quan để quang hợp tạo ra những chất dinh dưỡng, nuôi hom và tái sinh cây, lá có vai trò trong việc tạo thành cây chè. Do đó lá không thể bị tổn thương, và phải sạch sâu bệnh.

Để tạo thành cây chè hoàn chỉnh và sinh trưởng tốt trong vườn ươm, đủ tiêu chuẩn, đưa ra trồng trên nương nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, nhưng chủ yếu là chất lượng hom giống, đất trong bầu, chế độ ánh sáng, chế độ chăm sóc và phân bón cho vườn ươm.

Môi trường cắm hom chè thường dùng là một loại đất xốp có thành phần có giới trung bình và độ chua thích hợp pHkcl từ 4,5-5,5. Từ vết cắt hom chè sau khi giâm cành xuống đất, nó sẽ hình thành màng mộc thiêm để chống sự xâm nhập của vi sinh vật, dần dần tạo thành mô sẹo và từ đó mọc ra rễ đầu tiên, mầm nách của hom chè cũng được phát triển từng bước cùng với sự phát triển của bộ rễ, đầu tiên là lá vảy ốc mở, sau đó đến các lá cá và lá thật, để tạo thành cây chè hoàn chỉnh. Nếu để mầm phát triển sớm hơn phát triển rễ là không có lợi cho cây chè giâm do đó phải điều chỉnh sinh trưởng cân đối mầm và rễ.

Trong các yếu tố trên thì chất lượng hom giống ngoài phụ thuộc vào kỹ thuật nuôi hom trên cây mẹ nó còn phục thuộc rất lớn vào bản chất di truyền của từng giống. Trong thực tế, có những giống giâm cành chè rất đơn giản, tỷ lệ sống cao những cũng có những giống chè khi giâm cành rất khó ra rễ và điều này thường gặp trong quá trình chọn lọc giống ở những cây chè trồng hạt.

Đối với những giống tốt khó giâm cành có thể khắc phục bằng cách sử dụng chất kích thích sinh trưởng để giâm cành như: IAA hoặc IBA và NAA. Tại Viện nghiên cứu chè đã nghiên cứu chất kích thích làm tăng tỷ lệ xuất vườn đối với giống chè 1A (giống khó ra rễ), thí nghiệm đã dùng IAA nồng độ 4000-6000ppm làm tăng tỷ lệ xuất vườn 24,8% so với đối chứng.

3.2 Chọn địa điểm làm vườn giâm.

 
- Chọn nơi đất bằng hoặc hơi thoải dưới 5 độ, thoáng, gần nguồn nước tưới.

- Mực nước ngầm nhỏ hơn 1 mét, tiện lợi giao thông đi lại.

- Gần khu vực trồng chè.

3.3. Chọn thời vụ giâm

 
* Ở phía Bắc có 2 thời vụ giâm cành tốt nhất là vụ đông xuân và vụ hè thu.

- Vụ đông xuân có thể giâm cành từ 15 tháng 11 năm trước đến trung tuần tháng 2 năm sau.

- Vụ hè thu có thể giâm từ trung tuần tháng 6 đến trung tuần tháng 8. Vụ hè thu tỷ lệ sống thấp hơn vụ đông xuân do nhiệt độ không khí cao, mưa nhiều rất khó điều chỉnh ánh sáng và độ ẩm hợp lý. Nếu không thiếu giống nghiêm trọng thì miền Bắc chỉ nên giâm cành vào vụ đông xuân để vừa có hiệu quả trong sản xuất cây giống, vừa để vườn giống gốc có thời gian phục hồi sức sống.

* Ở miền Nam (vùng Tây Nguyên và Bảo Lộc): Thời vụ giâm từ tháng 4 đến tháng 8.
 
Hoài Nam tổng hợp

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×