Quy trình kỹ thuật nuôi cá bống bớp
Thứ tư, 16/08/2017

Cá bống bớp là loài có chất lượng thịt thơm ngon, không những được thị trường trong nước ưa chuộng mà còn được xuất khẩu sống sang như Trung Quốc, Hồng Kông,…
Cá bống bớp là loài có chất lượng thịt thơm ngon, không những được thị trường trong nước ưa chuộng mà còn được xuất khẩu sống sang như Trung Quốc, Hồng Kông,…
Đặc điểm sinh học
Cá có thân hình trụ tròn với đầu ngắn, mắt nhỏ và mõm tầy. Da trơn bao phủ bởi những vẩy nhỏ. Hai vây lưng tách biệt nhau, vây bụng gần nhau và dính ở gốc vây. Trên gốc vây đuôi có chấm đen to hình tròn hoặc hình trứng xung quanh có viền trắng.
Cá trưởng thành kích thước 10 – 18 cm, nặng 80 – 300 g, tốc độ sinh trưởng chậm. Ngoài tự nhiên cá phân bố nhiều ở những vùng cửa sông ven biển và đầm nước lợ từ Bắc vào Nam, độ sâu nước 0,2 – 1,5 m, độ mặn 5 – 25‰, hàm lượng ôxy >1 mg/l, pH 7 – 8, nhiệt độ thích hợp 25 – 300C và có thể chịu được nhiệt độ dưới 100C.
Khi còn nhỏ, cá sống theo từng cặp đực cái hay thành đàn trong hang. Cá thành thục sau 1 năm tuổi, mùa sinh sản thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, khi thời tiết ấm áp, độ mặn thích hợp (15 – 17‰) và thức ăn tự nhiên phong phú. Cá là loài đẻ trứng dính, thường làm tổ và đẻ trứng trong hang. Sau khi đẻ, cá bố mẹ luôn canh cửa hang để bảo vệ. Khi trứng nở thành cá con được cá bố mẹ bảo vệ và dẫn đi kiếm mồi. Cá giống sinh trưởng nhanh sau 3 tháng tuổi chiều dài cá tăng gấp 3 lần và trọng lượng cá tăng gấp 10 lần. Cá nuôi trong ao đất sau 5 tháng, đạt trọng lượng trung bình 30 g/con.
Thức ăn của cá là động vật phù du, giun, giáp xác cỡ nhỏ, ấu trùng côn trùng, khi lớn thức ăn của cá là các loại còng, cáy, tôm, cua nhỏ, don dắt và mùn bã hữu cơ. Bống bớp là loài cá dữ, thường chủ động bắt mồi sống và cũng có khả năng ăn con mồi chết. Cá có khả năng nhịn đói dài ngày, sức sống dẻo dai, thuận lợi trong việc vận chuyển tươi sống.

Tập tính sống:
Lúc nhỏ cá sống thành từng đàn trong hang. Cá trưởng thành sống trong hang, khi cá thành thục sinh dục hoặc khi đi kiếm ăn thì cá ra ngoài, cá có tập tính đào hang trú ẩn và đẻ trứng. Mỗi hang có từ 2 đến nhiều lỗ. Các lỗ này có vai trò lấy khí trời cho cá hô hấp khi ở trong hang thiếu oxy. Cần lưu ý tập tính này để đào đắp xử lý bờ tránh cá đi mất.
Tính ăn:
Cá có khả năng bắt và nuốt mồi bằng 1/10 cơ thể chúng và cũng có thể nhịn đói hàng tuần. Khi nhỏ cá ăn động vật phù du nhỏ, khi lớn cá ăn giáp xác (tôm, cua, còng…) cá ưa mồi thịt động vật hơn. Tuy nhiên vẫn có thể ăn một phần mùn bã hữu cơ, thức ăn hỗn hợp tự chế, thức ăn công nghiệp, mần thực vật non.
Sinh sản:
Mùa vụ sinh sản chính của cá vào tháng 4 – 8, khi thời tiết ấm áp, độ mặn thích hợp cho cá sính sản từ 15 – 17‰, nơi có thức ăn tự nhiên phong phú. Cá thành thục sau 1 năm tuổi, thụ tinh ngoài và đẻ trứng dính. Cá thường làm tổ và đào hang đẻ trứng. Sau khi đẻ, cá bố mẹ luôn canh ở cửa hang để bảo vệ. Khi trứng nở thành cá con, được cá bố mẹ bảo vệ và dẫn đàn đi kiếm mồi quanh hang.
Xây dựng ao nuôi:
Diện tích thích hợp nhất 200-2000m2, ao sâu 1-1,2m. Dọc ao đào rãnh rộng 2m để thuận lợi cho việc thu hoạch. Xung quanh bờ ao cần chôn phên nứa hay lưới nilon chìm dưới nước ao 60–70cm, cũng có thể đào rãnh quanh bờ rộng 25cm sâu khoảng 60–80cm dưới mặt nước. Mỗi ao nên có 2 cống để tiện cấp và thoát nước khi cần thiết. Trong ao nên thả rong bún, rong đuôi chó, rong câu nhằm tạo môi trường mát cho cá vào mùa hè, yên tĩnh và hấp thụ các loại chất độc trong ao nuôi.
Chuẩn bị ao nuôi
Nơi có giao thông và địa hình thuận tiện, có điện sinh hoạt, có chất đáy là cát bùn hoặc bùn cát. Ao nuôi cá bống bớp tốt nhất là những vùng triều nước lợ, ở trong và ngoài đê, độ mặn từ 5 – 25‰, có nguồn nước cấp chủ động
Ao nuôi có diện tích từ 500 – 5.000 m2 là thích hợp, có hình vuông, hình chữ nhật. Độ sâu của ao từ 1,2 – 1,5 m. Nền đáy có thể thiết kế mương rộng 1,5 – 2 m, sâu 30 – 40 cm. Ao có hệ thống cấp và thoát nước riêng biệt. Đáy ao bằng phẳng, hơi nghiêng về phía cống thoát. Ao nuôi có thể bố trí 1 – 2 dàn quạt nước, ở các vị trí đối diện nhau.
Bờ ao chắc chắn, không rò rỉ, nếu bờ rò rỉ có thể khắc phục bằng cách đào rãnh giữa bờ, độ sâu của rãnh thấp hơn độ sâu của đáy ao 50 cm, rãnh được lót bạt ni lông, giữa đổ cát. Với những vùng đất khó giữ nước, đáy ao cần lót bạt, sau đó đổ lớp cát dày khoảng 15 – 20 cm.
Chọn và thả giống
Chọn giống khỏe mạnh, không dị hình, không có dấu hiệu mắc bệnh, bơi lội linh hoạt, phản xạ nhanh; có kích thước đồng đều, cỡ giống khoảng 6 – 8 cm, mật độ thả 10 – 12 con/m2 tùy vào điều kiện đầu tư, chăm sóc. Thời gian thả giống vụ 1 vào khoảng tháng 3, tháng 4; vụ 2 vào tháng 7 đến tháng 8 trong năm. Trước khi thả tắm cá bằng nước ngọt hoặc fomaline, nồng độ 20 ppm trong 10 – 15 phút. Trong quá trình tắm cần quan sát và cung cấp đủ ôxy, nếu cá có biểu hiện sốc cần giảm nồng độ thuốc hoặc rút ngắn thời gian tắm cá. Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.
Chăm sóc, quản lý
Sử dụng thức ăn viên dạng chìm, loại chuyên dùng cho nuôi cá nước lợ, mặn có hàm lượng đạm trên 40%, hàm lượng lipid 10%, kích thước 1 – 1,5 mm không sử dụng thức ăn kém chất lượng, thức ăn bị ẩm mốc. Cho cá ăn 2 lần/ngày vào 7 – 8 giờ sáng và 17 – 18 giờ chiều, với khẩu phần 10 – 15% trọng lượng thân, sau đó giảm dần đến khi gần thu hoạch còn 2 – 2,5% trọng lượng thân.
Sử dụng sàng ăn bằng khung nhựa hoặc tre, gỗ để cho cá ăn. Cho cá ăn ngày 2 lần. Vào những ngày nhiệt độ nước dưới 200C hoặc trên 370C giảm lượng thức ăn hoặc cho cá nhịn ăn. Cần quan sát khả năng bắt mồi của cá và lượng thức ăn thừa trong sàng ăn để điều chỉnh lượng thức ăn một cách thích hợp nhất.
Định kỳ thay nước 2 lần/tháng, mỗi lần từ 10 – 20% lượng nước ao nuôi. Định kỳ sử dụng men vi sinh hoặc chế phẩm sinh học để xử lý môi trường nước ao nuôi.
Từ tháng nuôi thứ 2 cần quạt nước hoặc sục khí để tăng hàm lượng ôxy hòa tan. Thời gian quạt nước khoảng 5 – 8 giờ/ngày vào khoảng 23 giờ hôm trước đến 5 giờ sáng hôm sau. Vào những ngày thời tiết thay đổi, bất thường hay những thời điểm nắng nóng kéo dài cần tăng cường thời gian chạy quạt nước.
Định kỳ bổ sung Vitamin C, Vitamin tổng hợp, men tiêu hóa vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng, chống sốc cho cá nuôi, đặc biệt vào những thời điểm trước khi giao mùa hay trước những đợt nắng nóng.
Kiểm tra tốc độ tăng trưởng và tình hình bệnh cá để có chế độ điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp và biện pháp xử lý bệnh kịp thời.
Sau 6 tháng cá đạt kích cỡ thương phẩm có thể tiến hành thu tỉa hoặc thu toàn bộ.
Một số bệnh thường gặp
Bệnh đóng dấu (lở loét)
Bệnh thường xảy ra vào các tháng giao mùa cuối thu đầu đông và cuối xuân hè là phổ biến. Trên thân cá xuất hiện các vết loét hình tròn viền đỏ hoặc viền trắng xung quanh. Cá bị bệnh kém ăn và lây lan rất nhanh nhất là những ao nuôi bị ô nhiễm và thả cá với mật độ cao.
Phòng bệnh: Định kỳ thay nước cho cá. Nếu sử dụng thức ăn tươi sống cần khử trùng bằng thuốc tím tránh cá bị lây nhiễm bệnh qua thức ăn. Dùng tỏi xay nhuyễn trộn cùng với thức ăn cộng thêm chất kết dính như bột mỳ, bột sắn… cho ăn dùng 200 g tỏi cho 100 kg cá dùng liên tục trong 3 ngày liền. Định kỳ hàng tháng dùng Tiên Đắc 1 với liều lượng 25 g/100 kg cá/ngày. Trộn vào thức ăn cho cá ăn liên tục trong 3 ngày.
Trị bệnh: Tát cạn ao, loại bỏ cá đã bị bệnh lở loét ra. Ngoài ra, tiến hành khử trùng lại đáy ao sau đó tắm thuốc tím với lượng 30 g/m3 trong 5 – 7 phút.
Dùng Tiên Đắc 1 với liều lượng 50 g/100 kg cá/ngày. Trộn vào thức ăn cho cá ăn liên tục trong vòng 1 tuần
Bệnh chướng hơi
Bệnh xuất hiện vào mùa hè khi thời tiết biến động bất thường, cá bị bệnh trướng bụng to, bơi lội kém, mất thăng bằng. Cách phòng, trị bệnh tương tự như bệnh lở loét, hoặc có thể sử dụng kháng sinh Flumequin theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Bệnh phỏng rạ
Bệnh xuất hiện quanh năm trên thân cá, xuất hiện các vết màu trắng và phổng rộp lên. Bệnh có thể tự khỏi khi môi trường thay đổi. Nguyên nhân gây bệnh do môi trường khắc nghiệt như mưa hoặc nắng kéo dài.
Phòng bệnh: Tiến hành thay nước định kỳ, quản lý tốt chất lượng nước và màu nước trong ao nuôi, nhất là khi có sự biến động của các yếu tố môi trường.
Trị bệnh: Thay nước cho ao nuôi với lượng trên 50% cá sẽ tự khỏi.
Bệnh rận cá
Khi bị bệnh trên thân cá xuất hiện rận bám vào da hút chất dinh dưỡng làm cá chậm lớn hoặc trùng mỏ neo ký sinh vào miệng, mang, mô miền hút máu làm cá chậm lớn.
Trị bệnh: Dùng Diprex phun xuống ao với liều lượng 200 – 400 g/1.000 m3, sau 3 ngày lặp lại và trùng mỏ neo sẽ chết hết.
Thành Long tổng hợp (Nguồn Nghenong.com, thủy sản Việt Nam)
Tags
Bài viết cùng chuyên mục
- Việt Nam có thuốc y học cổ truyền đầu tiên điều trị Covid-19
- Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới 2023: Thúc đẩy đổi mới sáng tạo
- Na Uy mở đường hầm dài nhất thế giới cho xe đạp
- Ngày mai có thể quan sát nhật thực lai hiếm gặp
- Phó giáo sư Việt làm hệ thống sạc không dây cho ôtô điện
- Thủ tướng: 'Tập trung nhân lực cho công nghệ chip, vi mạch là hướng đi đúng'
- Tuổi Trái Đất được tính như thế nào?
- Ngoại trưởng Mỹ xem trình diễn robot tại Đại học Bách khoa Hà Nội
- Vì sao khi huấn luyện mô hình ChatGPT cần tới 700.000 lít nước?
- Ảnh chụp chưa từng có về 'tinh vân con cua'
Đăng nhập để gửi bình luận
Bình luận