Những cô giáo có tấm lòng “đẹp

Thứ ba, 26/11/2019

Trở về sau chuyến dạo chơi ở vùng cao Tây Bắc, cô gái người Hà thành quyết tâm quay lại vùng đất này với tâm thế mới: Dạy chữ cho trẻ em dân tộc thiểu số. Xa nhà, xa bạn bè, người thân, những đêm trăng sáng cô chỉ biết lên đỉnh ngọn đồi cao trông trăng rồi ôm mặt khóc. Đó là câu chuyện của cô Phạm Thị Lan, giáo viên dạy Toán, thạc sĩ hiếm hoi ở huyện vùng cao Nậm Nhùn, Lai Châu.

Hoài bão của thạc sĩ trẻ nơi vùng khó


Trở về sau chuyến dạo chơi ở vùng cao Tây Bắc, cô gái người Hà thành quyết tâm quay lại vùng đất này với tâm thế mới: Dạy chữ cho trẻ em dân tộc thiểu số. Xa nhà, xa bạn bè, người thân, những đêm trăng sáng cô chỉ biết lên đỉnh ngọn đồi cao trông trăng rồi ôm mặt khóc. Đó là câu chuyện của cô Phạm Thị Lan, giáo viên dạy Toán, thạc sĩ hiếm hoi ở huyện vùng cao Nậm Nhùn, Lai Châu.


Dù môi trường dạy học còn gian nan song cô giáo Phạm Thị Lan vẫn quyết tâm “bám trụ” để dạy học cho con em vùng dân tộc thiểu số Nậm Nhùn, Lai Châu. Ảnh: T.GDù môi trường dạy học còn gian nan song cô giáo Phạm Thị Lan vẫn quyết tâm “bám trụ” để dạy học cho con em vùng dân tộc thiểu số Nậm Nhùn, Lai Châu. Ảnh: T.G

 Bỏ phố, lên rừng

Trong chuyến công tác dài ngày ở huyện vùng cao Nậm Nhùn, chúng tôi có dịp được gặp gỡ với các thầy, cô giáo ở Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Nậm Chà, xã Nậm Chà. Cả trường có mấy chục thầy cô giáo, họ đều là những người một chốn đôi quê. Trong số này, cô giáo Phạm Thị Lan, giáo viên dạy Toán là người đặc biệt hơn cả.

Được mọi người gọi với cái tên thân mật “Lan thạc sĩ” bởi cô là giáo viên hiếm hoi của huyện đạt trình độ này. Nghe nói có đoàn công tác từ Hà Nội lên, mắt cô Lan như sáng ra khi có một thứ gì đó gần gũi bỗng ùa về. Cô niềm nở tiếp đón và hỏi han các thành viên trong đoàn công tác như thể đã quen nhau từ lâu. Có lẽ cũng bởi cô xa Hà Nội, xa gia đình nên muốn tiếp chuyện để vơi đi nỗi nhớ nhà.

Phạm Thị Lan (SN 1992) sinh ra và lớn lên tại huyện Ứng Hòa, Hà Tây (nay là Hà Nội). Xuất thân từ một gia đình có cả bố và mẹ đều công tác trong ngành Giáo dục nên Phạm Thị Lan sớm nung nấu ước mơ dạy chữ, dạy người. Tốt nghiệp THPT, Lan hăng hái nộp hồ sơ thi tuyển vào Đại học Sư phạm II, chuyên ngành Sư phạm Toán.

Năm 2014, Lan ra trường và được nhận vào công tác tại một trường THPT ở quê nhà. Vừa làm, cô vừa đăng ký theo học Thạc sĩ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội rồi tốt nghiệp. Cũng trong thời gian này, trong chuyến đi thực tế cùng bạn bè ở vùng cao Tây Bắc, thấy được những thiệt thòi, vất vả của trẻ em nghèo nơi đây, Lan mua hồ sơ xin việc, nắn nót từng chữ với quyết tâm xin chuyển lên Tây Bắc để dạy chữ cho con em đồng bào vùng cao.

“Từ nhỏ, em đã thích tham gia các hoạt động từ thiện xã hội nhưng vì mải học hành, chẳng làm được gì. Thấy tuổi trẻ cứ thế trôi đi và con người gần như an phận nên em quyết tâm phải làm gì đó. Thế rồi, em xin lên Lai Châu. Ban đầu cũng chỉ biết Lai Châu xa Hà Nội, phải mất một đêm di chuyển trên xe ca, chứ không biết từ thành phố đến huyện lại xa hàng trăm cây số như thế này đâu”, cô Lan tâm sự.

Thêm yêu nghề

Mới ngày nào hai bố con cô Lan khăn gói lên đường, rời chốn Hà thành phồn hoa, lên vùng heo hút, âm u công tác. Quay đi, ngoảnh lại đã hai năm. Cô Lan vẫn nhớ như in những ngày đầu đặt chân lên đất Nậm Chà của huyện Nậm Nhùn. Từ tỉnh lỵ Lai Châu đến trung tâm huyện mất khoảng 100km. Từ trung tâm huyện đến xã đi thêm 60km nữa. Xe khách chẳng có để di chuyển đến trung tâm, những giáo viên như cô Lan chỉ còn cách thuê xe ôm, đi nhờ hoặc đi bộ. Có những đoạn qua suối, không có cầu lại thuê đò của người dân để đi qua.

“Ngày đầu bước chân vào đây vất vả lắm anh (PV) ạ! Mấy thầy cô cùng ở Hà Nội kéo nhau lên công tác, đã biết Lai Châu là gì đâu? Nghĩ một lúc rồi lại vui vẻ trở lại và cảm thấy hạnh phúc vì bản thân đã sẵn sàng tâm lý đi để dạy chữ”, cô Lan tâm sự.

Rằm tháng 8/2017 là rằm đầu tiên cô Lan xa gia đình, người thân. Tối hôm đó, cô Lan, cô Miên, cô Thủy, cô Trung Anh và cả cô Xuân là những người cùng cảnh xa quê rủ nhau trèo lên một đỉnh đồi cao nhất phía sau trường, ngắm trăng rồi ôm nhau khóc. Nỗi nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ tiếng trống hội trăng rằm nơi thành thị cứ theo nhau ùa về. Còn ở đây chỉ có tiếng chim kêu, vượn hú, chứ mấy ai biết đến Tết Trung thu. Nhớ nhung nhiều lắm, nhưng cô Lan không dám gọi điện về nhà để kêu than vì sợ bố mẹ đã già yếu, lại thêm nhớ thương.

Hai năm trước, khi cô Lan đặt chân đến xã, Nậm Chà không có điện, không có sóng điện thoại, đường đi gọi là có nhưng cũng chẳng thể gọi là con đường đúng nghĩa. Thế nên để vượt qua 60km đến trường rồi chẳng ai muốn quay ra trung tâm huyện nữa.

“Ở đây mọi người không có sự phân biệt gì cả, chỉ có tình cảm thôi anh (PV) ạ! Lúc đó, em, chị Miên, chị Thúy cùng ở một phòng. Em ở tầng hai, hễ trời đổ mưa là nước rơi vào mặt, trời nắng thì rọi vào chẳng thể ngủ được vì mái nhà bị dột”, cô Lan nhớ lại.

“Những lúc trái nắng, trở trời, ốm đau cũng muốn có bàn tay cha mẹ vỗ về, chăm sóc nhưng cũng chỉ biết ôm chăn rồi khóc. Gọi về tâm sự sợ bố mẹ thêm lo nghĩ, lại sinh bệnh tật. Những lúc như thế, chúng em chỉ biết đùm bọc, chia sẻ, chăm sóc lẫn nhau thôi”, cô Lan rơm rớm nước mắt kể.

Là thạc sĩ hiếm hoi đứng trên bục giảng, cô Lan mang hết tâm huyết, trách nhiệm, lòng yêu nghề để truyền thụ kiến thức cho học sinh vùng cao. Thấy các em vô tư, hồn nhiên và hăng say học tập, cô Lan thấy sự đóng góp của bản thân nơi “thâm sơn cùng cốc” có ý nghĩa hơn. Cuộc sống đầy khó khăn, thiếu thốn là thế, nhưng cô vẫn luôn xác định sẽ gắn bó với con trẻ nơi đây.
 

Đón học sinh về nhà dạy miễn phí

 
Dù hoàn cảnh của mình cũng không ít khó khăn, nhưng cô giáo Đỗ Thị Hợp đã tận tình dạy dỗ và chăm sóc cho các em học sinh dân tộc thiểu số, để các em chăm chỉ đến trường.


Không chỉ là giáo viên dạy giỏi, cô Hợp còn là người mẹ thứ hai của các học sinh dân tộc thiểu số

Cô giáo Đỗ Thị Hợp (37 tuổi) là giáo viên Trường phổ thông dân tộc bán trú tiểu học số 1 Văn Lăng, xã Văn Lăng, H.Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Gần 10 năm “trồng người” trên non cao, cô đã trải qua rất nhiều khó khăn để vận động học sinh (HS) các dân tộc thiểu số đến trường.

Trường đóng trên vùng cao, thuộc vùng đặc biệt khó khăn, có tới 81,9% HS là con em dân tộc thiểu số, nhiều em khi đi học lớp 1 vẫn chưa biết nói tiếng phổ thông. Vì thế, khi dạy học, thấy các em không hiểu được, cô Hợp đã tự mình học tiếng dân tộc để tiếp cận được HS. Giờ đây, cô dạy học bằng cả song ngữ (tiếng Việt và tiếng dân tộc) nên đã giúp HS hiểu bài và đạt kết quả tốt.

Do nhà nghèo, trường xa nên khi chưa có trường bán trú, HS bỏ học nhiều, cô đến từng nhà vận động các em đến lớp. “Nếu không vào đón đi học thì trẻ em thất học nhiều lắm. Tôi phải đến từng nhà vận động, rồi cho các em quần áo, đồ dùng học tập để động viên các em tới trường. Có một HS xóm Khe Cạn, nhà ở tít trên cao, em ấy bỏ học mà tôi không liên hệ được với bố mẹ vì họ không có điện thoại, lại không biết chữ. Tôi đi bộ lên đón và phải dùng tiếng Mông bảo không đi học khổ lắm”, cô Hợp kể. Do lớp học có nhiều dân tộc khác nhau, nhận thức của các em cũng đồng đều, nên với những em chậm tiến, cô Hợp mở lớp dạy miễn phí tại nhà để đưa các em về học.

Từ khi trường đón HS ở bán trú, ngoài việc dạy chữ cho các em, cô Hợp còn làm thay nhiệm vụ của người cha, người mẹ, bởi HS còn rất nhỏ. “Các em từ lớp 1 vừa mới chia tay trường mầm non đã phải ăn ở lại trường qua đêm cả tuần nên thầy cô phải hướng dẫn các em từ tắm gội, vệ sinh cá nhân, giặt quần áo… chăm sóc cả bữa ăn giấc ngủ hằng ngày cho các em. Tôi vừa vừa dạy học vừa kiêm cắt tóc, tắm rửa, bắt chấy cho các em...”, cô Hợp chia sẻ.

Tôi cũng không biết mình vượt qua bằng cách nào chỉ biết cứ cố gắng mỗi ngày bằng tình yêu thương học trò. Vì tôi luôn mong muốn con em đồng bào mình biết đọc, biết viết và xa hơn nữa là vào được các trường chuyên nghiệp để nâng cao dân trí

Cô Hợp cũng cho biết một số HS lớp 1, 2 xa nhà nhớ bố mẹ, gào khóc, cô dỗ dành bằng tình yêu thương để giúp các em quên nỗi nhớ nhà. Nhiều hôm HS bị ốm vào ban đêm, cô phải đưa các em đi viện cấp cứu vì gia đình các em ở xa chưa đến kịp… Ở lớp có 1 HS bị bệnh hiểm nghèo, hằng tháng phải đi bệnh viện nên không đến lớp thường xuyên được. Vậy là cô tranh thủ những ngày em không phải đi chữa bệnh, cô đến tận nhà để dạy cho em và đã giúp em lên được lớp 2.

Cô Hợp có gia cảnh cũng khó khăn. Cả hai vợ chồng cô đều là giáo viên tiểu học, nhưng chồng cô lại dạy tại một bản cao nhất tỉnh Thái Nguyên, nên việc nhà và con nhỏ cô đều cáng đáng hết.
Cô Hợp tâm sự: “Tôi cũng không biết mình vượt qua bằng cách nào chỉ biết cứ cố gắng mỗi ngày bằng tình yêu thương học trò. Vì tôi luôn mong muốn con em đồng bào mình biết đọc, biết viết và xa hơn nữa là vào được các trường chuyên nghiệp để nâng cao dân trí”.
 
Nhật Mai tổng hợp (Theo TNO, GDTĐ)

Tags

Bình luận


Tiêu điểm

Video nổi bật

×